Đền Cổ Loa là đền thờ Thục An Dương Vương, hiện ở Đông Anh, Thủ đô Hà Nội. Năm 1993, ông Nguyễn Nghĩa Nguyên đã cho xuất bản cuốn sách Từ cổ Loa đến đền Công (Nxb Nghệ An 1993) khảo tả đền rất chi tiết, dồi dào tư liệu, ông đã đi thực địa, thu thập được nhiều văn bản cũ, và có tham khảo cả cuốn sách: cổ Loa, capitale du Âu Lạc (Cổ Loa, thủ đô nước Âu Lạc) của René Desperres. Tôi đã xin phép bạn Nguyên để trích lại đoạn viết của ông (V.N.K)
Ở trong Thành Nội có đền thờ Thục An Dương Vương, (địa phận xóm Chùa ngày nay).
Khu đền gồm đền Thục An Dương Vương, còn gọi là Đền Thượng và am Bà Chúa thờ công chúa Mỵ Châu.
Ngoài ra còn nhiều điện, miếu khác nhưng không liên quan gì đến tích Thục An Dương Vương như văn miếu cổ Loa, chùa cổ Loa…
Đền Thục An Dương Vương ỏ trên một gò đất cao dưới chân lũy thành cũ, góc Tây – Nam.
Từ đường cái làng, bước lên mấy bậc tam cấp là cổng ngoài, cột nanh đồ sộ mặt ngoài và mặt trong có câu đôi bằng chữ Hán, trên đỉnh đắp nghê gắn mảnh sứ cổ. Một lối đi lát gạch hơi dốc dẫn tới cổng tam quan cổ kính, lầu thượng cao sừng sững. Hai bên lôi đi có hai giếng mắt rồng đối xứng với nhau.
Cổng tam quan ở vị trí cao hơn, phải bước lên mấy bậc tam cấp, hai bên có hai con rồng đá từ đời Lê tạc trổ rất tinh xảo làm lan can.
Qua cổng tam quan là sân đền, hai bên có nhà khách đón khách thập phương về đi lễ.
Đền thờ Thục An Dương Vương: Hạ điện – một ngôi nhà ba gian to cao, cột lim đồ sộ, tám mái cong vút, cửa ban khóa sơn đỏ chỉ mở khi đại tế.
Ở trong gian giữa đặt kiệu thần, đồng thời là bàn thờ. Hai bên là giá cắm cờ quạt, bát bửu, giá trống chiêng. Có hai con ngựa gỗ to bằng ngựa thật, yên bành thêu kim tuyến lộng lẫy làm từ đời vua Vĩnh Thịnh (1706 – 1769).
Trên xà có hoành phi, các cột đều có câu đốỉ bằng gỗ son thiếp vàng. Có đôi câu đối của Tôn Thất Thuyết, đại thần nhà Nguyễn như sau:
‘Tạc đáo Loa thành tùy diệt một;
Điện vô quy nỏ dũ uy linh.”
Tạm dịch:
(Giặc đến Loa thành thua tan tác;
Đền không nỏ máy tỏa linh uy.)
Hạ điện và thượng điện cấu trúc theo hình chữ khẩu. Từ tả hữu của hạ điện có hai dãy nhà hành lang, phía ngoài xây kín nối với thượng điện. Khoảng vuông ỏ giữa là một ngôi nhà trùng diêm tám mái cao, bàn thờ kê cao, ở trên có tượng Rùa Vàng bằng gỗ sơn son thiếp vàng và một chiếc cung có tên. Đây là bàn thờ thần Kim Quy.
Thượng điện cũng ba gian. Bàn thờ Thục An Dương Vương đặt giữa, hai bên là bàn thờ của Phụ Vương và bàn thờ Hoàng Hậu.
Nơi thờ Thục An Dương Vương thâm nghiêm, bàn thờ kê cao hơn mấy bậc. Trong cùng là long ngai to cao, đề sáu chữ: Thánh tổ An Dương Vương hoàng đế. Một chiếc mũ hoàng đế và một đôi hia rất to đặt ở trước. Hộp quốc ấn phủ vải đỏ.
Trước long ngai là pho tượng Thục An Dương Vương bằng đồng như một người thật mặc triều phục. Ngày cũng như đêm khói hương nghi ngút, một ngọn đèn dầu nhỏ tỏa ánh sáng lung linh. Các vị từ đường thường xuyên thay nhau kính cẩn rót thêm dầu vào để ngọn lửa không bao giờ tắt. Không biết ngọn lửa thần ấy đã liên tục tỏa sáng mấy nghìn năm nay rồi?
Đứng trước bàn thờ nhìn lên, ai cũng có cảm giác như đây là một vì sao từ trên trời thả xuống lơ lửng trước pho tượng Thục An Dương Vương sinh động – vị vua đã từng xây thành cổ Loa, lập nước Âu Lạc.
Ngày nay ngọn đèn dầu ấy đã được thay thế bằng một ngọn đèn hiện đại phảng phất khí thiêng xưa.
Phía Tây đền Thục An Dương Vương, trên một gò đất cao, nơi xưa kia vua Thục dựng miếu thờ Thần Nông là nhà bia – một ngôi nhà nhỏ xinh xắn hình vuông, bốn góc mái cong vút lên không, bậc lên bằng đá, rồng lan can bằng đá. Ớ trong bốn mặt là bia dựng, ở giữa là một bia đá hình khối vuông tạc trổ tinh vi. Bia khắc các chỉ dụ của các triều vua sau về việc bảo vệ thờ phụng đền Thục An Dương Vương.
Thật là một công trình kiến trúc cổ xưa độc đáo!
Chỉ dụ lâu đời nhất đề niên hiệu Lê Thần Đức (1614) cấp cho xã Cổ Loa 50 mẫu ruộng tế điền miễn thuế để lo việc tế tự ở đền Thục An Dương Vương, miễn 32 suất lính để lo việc trông coi đền miếu. Các đời vua Vinh Tộ (1620), Phúc Thái (1649), Cảnh Trị (1673), Khang Vương (1686), Vinh Thịnh (1708), Long Đức (1735). Vĩnh Hữu (1743)… đều có chỉ dụ nhắc lại.
Trước đền thờ Thục An Dương Vương, cách cổng đền không xa là một cái ao tròn đường kính 80 mét, chính giữa nổi lên một cồn đất hình tròn, có một cái giếng tròn ở giữa xây gạch. Đó là giếng Ngọc – nơi xưa kia Trọng Thủy nhớ Mỵ Châu gieo mình xuống quyên sinh.
Địa thế đền Thục An Dương Vương rất đẹp. Người ta ví như một con rồng khổng lồ còn hướng về phương Nam. Đầu rồng là ngôi đền, mắt rồng là hai giếng Mắt Rồng ở hai bên lối vào cổng tam quan. Giếng Ngọc là mỏm rồng và lũy Thành Nội là thân rồng uốn khúc.
Am Bà Chúa cách đền Thượng mấy trăm mét, cạnh đình Cổ Loa. Một cây đa cổ thụ trồng từ thời vua Ngô Quyền, hàng thế kỷ tuổi vươn cành tán che mát cho am. Dưới gốc cây cổ một bàn thờ nhỏ lúc nào cũng khói hương nghi ngút.
Am gồm có Thượng điện và Hạ điện.
Hạ điện là một ngôi nhà nhỏ ba gian, cửa luôn luôn đóng kín. Ở giữa là bàn thờ, cột nào cũng có câu đố gỗ sơn son thếp vàng. Thơ vịnh cũng rất nhiều, khắc vào gỗ cũng sơn son thiếp vàng trịnh trọng.
Cách một cái sân nhỏ là đền Thượng điện ba gian. Gian giữa đặt bàn thờ công chúa Mỵ Châu, có mũ cườm và giày cườm. Hai bên thờ mưòi hai nàng hầu. Đôi câu đối hai bên bàn thờ công chúa của Đại các Học sĩ Hàn lâm viện Nguyễn Tư Giản như sau:
“Trung tín thệ tầm thân hóa thạch;
Hưng vong sá lệ tỉnh trầm châu”
Tạm dịch:
(Lời thề trung tín thân hóa đá;
Giọt lệ hưng vong, giếng trầm châu (rửa ngọc)
Sau bàn thờ công chúa Mỵ Châu, vén bức trướng sẽ thấy một khối đá hình người có hai vai cao hơn một mét phủ vải vàng. Khôi đá có nhà ba bề xây kín che tương tự như một hậu cung. Đó là mộ của Mỵ Châu theo như người xưa nói lại.
Bài thơ sau đây của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh đề niên hiệu Thành Thái thứ 3 (1903) khắc vào gỗ để ở trong miếu đã nói đầy đủ cảm xúc của ngưòi đến viếng cũng như miêu tả miếu thờ:
“Lang quân tình trọng phụ ân thâm,
Bất bạch kỳ oan trực đáo câm.
Cơ trảo vô hình quy diệc khứ,
Minh Châu hữu lệ, bạng do trầm.
Hoàng bi cổ mộc thiên niên quốc,
Bích hải giao thiên nhất phiến tâm.
Tịch mịch tiên triều cung ngoại miếu,
Đỗ quyên đề đoạn, nguyệt âm âm.”
Dịch:
Nghĩa cha sâu lại nặng tình chồng,
Giãi nỗi kỳ oan mãi chửa thông.
Thần nỏ mất thiêng, rùa đã lặn,
Trai ngậm minh châu, lệ nhỏ dòng.
Ngàn năm đại thụ che bia cổ,
Biển biếc trời xanh một nỗi lòng,
Triều xưa tịch mịch cung ngoài vắng,
Tiếng cuốc ngừng kêu, trăng mung lung…
(Trần Hữu Thung phỏng dịch)
Đền thờ Thục An Dương Vương ở Cổ Loa có từ bao giờ?
Ở Việt Nam, nơi nào có dân ở thành ấp, thành thôn khắc có đền có đình, có chùa, có miếu. Nhưng xác định cụ thể thời điểm xây dựng đền thờ Thục An Dương Vương thì thật là khó.
Theo thần phả am Bà Chúa, khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa đã kéo quân về Cổ Loa và Hai Bà đã nghỉ ở am Bà Chúa, nghĩa là lúc đó đã có khu đền này rồi.
Sau khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, vua Mạc đã bắt xoay hướng đền Thượng để triệt long mạch của vùng này, vì có nhiều cuộc nổi loạn và đã có vị cõng vua Lê Vĩnh Tộ (lúc đó chưa làm vua) giấu trong đền Thượng để tránh quân Mạc đuổi bắt.
Sau khi nhà Lê trung hưng, vua Lê đã phong sắc cho xã Cổ Loa “Thang mộc trung nghĩa xã”, nay còn bức hoành phi với ba chữ đại tự: “TRUNG NGHĨA DÂN” để ở đền Thượng. Nhà vua còn định việc bảo quản và tế lễ ở đền thờ Thục An Dương Vương khắc trên bia đá.
Đời Chính Hòa (1682-1703) đền thờ Thục An Dương Vương được trùng tu lại và mở rộng quy mô như ngày nay.
Dưới triều Nguyễn cũng như sau Cách mạng tháng Tám, đền còn tiếp tục được trùng tu nhiều lần nên còn tồn tại và tôn nghiêm.
Ở đền Thục An Dương Vương – Cổ Loa, việc thờ cúng tế lễ và tổ chức lễ hội hàng năm thật là long trọng.
Trước đây ruộng đất dành cho công việc trên kể đến hàng trăm mẫu trong đó có số được miễn thuế.
Về mặt tổ chức, xã cổ Loa cử ra các ông đám – ông từ:
Ông đám Đoài (thôn Đoài) và ông đám Đông (thôn Đông) thắp hương và trông coi đền Thượng.
Tham gia cúng tế ở đền Thục An Dương Vương có các xã Thư Cựu (tổng Cổ Loa) Mạch Tràng, Văn Thượng (tổng Xuân Canh) Đại Bì, Cầu Cả, Ngoại Sát Sằn dã (tổng Uy Nội).
Hàng năm, theo âm lịch ở đền Cổ Loa có ba kỳ tế chính:
– Kỳ mồng 6 tháng Giêng: lễ hội cổ Loa.
– Kỳ mồng 7 tháng 3: ngày Thánh hóa.
– Kỳ 18 tháng 11: ngày Thánh sinh.
Thánh là Thục An Dương Vương.
Trong các kỳ tế lễ, xã Văn Thượng được cử người viết chúc văn, xã Thư Cựu lo việc cỗ bàn, các xã khác đảm nhiệm những mặt còn lại.
Đại biểu làng Quẹo (xã Liên Hà ngày nay) vốn dòng dõi gốc người Cổ Loa được mời vào ngồi chiếu nhất.
Trong kỳ tế thì kỳ mồng 6 tháng Giêng – lễ mười ngày. Có thể nói nội dung của lễ hội gồm ba phần:
– Lễ tế thần.
– Lễ rước kiệu.
– Khách trẩy hội dâng hương cầu phúc.
Suốt trong mười ngày đêm đủ các trò vui chơi thỏa thích.
Ngày mồng 6 tháng Giêng là ngày chính lễ. Từ sáng sớm, sân đền đã chuẩn bị sẵn sàng cho buổi lễ. Trước đền, bày một bàn thờ kê cao, ở trên bày biện các đồ tế khí ở trong đền đưa ra, có cả mũ, hia, cung nỏ tượng trưng của Đức Vua. Trước ban thờ là kiệu đền Thượng.
Hai dãy giá cắm cờ quạt, đồ bát bửu hai bên. Các xã tham gia tế thần Thục An Dương Vương rước kiệu xã mình đến, để hai dãy theo dọc dãy giá cờ quạt và đồ bát bửu.
Dường như sáng hôm đó, một góc của huyện Đông Ngạn rực lên trong màu đỏ, màu vàng của cờ, lọng, náo động trong tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng trống nhạc bát âm. Các đoàn rước kiệu, cò dẫn đầu, tiếp đến là gươm giáo, chùy, trượng, bát xà mâu…, những tế khí ở đền. Sau kiệu là đội nhạc trống chiêng, bát âm. Những người cầm cờ, vác gươm đao cũng như khiêng kiệu hay đội bát âm đều mặc áo nẹp thắt lưng đỏ, vàng, xanh như lính nhà vua ngày xưa. Người đánh trống, đánh chiêng trước khi gõ dùi vào chiêng trống múa tay múa chân như làm trò vậy.
Sau đội nhạc là các vị chức sắc, các bô lão tế phụ long trọng. Dân làng gái trai, già trẻ, nam nữ cũng mặc những bộ quần áo đẹp nhất của mình đi theo đoàn rước. Và mỗi đoàn giống như một con rồng màu sắc rực rỡ uốn mình theo những đường cái quanh co hướng về đền Thượng.
Tiếng trống, tiếng chiêng rước kiệu vừa hồi thì ở xã Văn Thượng lại nổi lên tiếng trông, tiếng chiêng rước giá văn. Đoàn rước giá văn cũng rực rỡ và long trọng như các đoàn rước kiệu. Giá văn rước qua cổng chính của tam quan và đặt trước kiệu đền Thượng. Và sau đó là lễ tế thần.
Lễ tế thần kéo dài trên hai tiếng đồng hồ và kết thúc chương trình buổi sáng.
Buổi chiều mở đầu với lễ rước kiệu từ đền Thượng sang đình Cổ Loa. Kiệu đền Thượng rước đi trước và sau đó là kiệu của bảy xã. Kiệu đền Thượng đặt ở giữa đình Cô Loa. Kiệu các xã đặt hai hàng ngoài sân đình. Ở đây lại diễn ra một lần nữa lễ tế thần như ở bên đền Thượng buổi sáng.
Lễ tế thần được kết thúc bằng lễ ban phúc.
Trước hết, chủ tế lên trước kiệu đền Thượng khấn vái xin ban phúc. Bô lão, chức sắc các xã lần lượt bước lên nhận những nắm hương mà chủ tế nhận từ kiệu của đền Thượng châm lửa trao cho đem về cắm ở kiệu xã mình.
Nhận được phúc Thánh, các xã lần lượt rước kiệu về. Kiệu đền Thượng cũng rước trở về đền.
Lễ tế thần và rước kiệu được chuẩn bị khá công phu, vừa long trọng vừa đẹp mắt, đã thu hút hàng ngàn người xem.
Từ ngày mồng 7 dành cho khách thập phương trẩy hội vào lễ đền. Có người Hà Nội, Hải Phòng, Hà Đông, Bắc Ninh, Lạng Sơn và rất xa. Người ta đi theo nhóm, theo đoàn, cũng có người đi một mình. Trước đền Thượng cũng như am Bà Chúa, người đứng chen chân nhau. Có người vì đông quá không vào được trong đền quỳ ngay trước thềm, giữa sân khấu vái. Và cả vùng cổ Loa, ngày cũng như đêm, lúc nào cũng rì rầm những tiếng cầu khấn.
Trong lúc ở trong đền tế lễ, khấn vái như vậy thì ở ngoài diễn ra đủ thứ trò vui: đu dây, đu tiên, đấu vật, chọi gà, cò ngưòi, cò thẻ, bài điếm, vật cù lộ… Ban đêm có hát tuồng, hát chèo.
Để phục vụ lễ hội, hàng quán la liệt, góc nào cũng có. Hầu hết là hàng ăn và hương hoa bán cho ngưòi đi lễ. Hàng ăn đủ các thứ bánh, cơm, cháo phở… thích hợp với các loại túi tiền.
Khách về trẩy hội, ai cũng nuôi cho mình những hy vọng tốt đẹp, hy vọng về sự ban phước của Đức Thánh tối cao và tối linh mà họ đã cầu xin…
Cách mạng tháng Tám thành công, khu Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử. Việc thờ phụng ở đền vua Thục và am Bà Chúa được duy trì, do xã Cổ Loa đảm nhiệm. Xã cử một ban phụng sự 12 người, đại diện Ủy ban mặt trận Tổ quốc làm trưởng ban; trong ban có hai vị từ đường, một ngưòi phụng sự ở đền Thượng, một người phụng sự ở am Bà Chúa. Hai người này, nhân dân cử hàng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp tới đền làm lễ nhậm chức.
Nếu người cũ được cử lại cũng vẫn phải làm lễ đó.
Ban phụng sự làm nhiệm vụ quét dọn, bảo quản khu đền, tiếp đón khách đến viếng và lễ đền hàng ngày. Từ đường mở cửa đền cho khách vào làm lễ giới thiệu thần tích cho khách nghe. Từ đường coi như tôi tớ của thần, sắp đặt, quét dọn, hương khói hàng ngày trong đền, giữ chìa khóa đển.
Ở Cổ Loa, hàng ngày, nhất là chủ nhật và ngày lễ, khách đến viếng và thắp hương rất đông, có cả người nước ngoài nữa.
Lễ hội Cổ Loa hàng năm vẫn được duy trì. Những năm đầu, ủy ban Nhân dân thành phô” Hà Nội đứng ra tổ chức (Cổ Loa là một xã thuộc ngoại thành Hà Nội), rồi chuyển giao lại cho ủy ban Nhân dân huyện Đông Anh. Từ khi thấy Đảng và chính quyền xã Cổ Loa trưởng thành, đủ khả năng tổ chức lễ hội, ủy ban Nhân dân huyện đã giao nhiệm vụ này cho địa phương.
Đến lễ hội, Đảng và Chính quyền Cổ Loa đã huy động toàn lực lượng trong xã, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan văn hóa của huyện và thành phố để tổ chức.
Lễ hội Cổ Loa nay chỉ còn hai ngày: ngày mồng 5 tháng Giêng vào hội; ngày mồng 6 tháng Giêng chính hội. Về nội dung thì không có lễ rước kiệu và lễ ban phúc như trước đây. Ngày chính hội, buổi sáng vẫn có lễ tế thần ở đền Thượng và buổi chiều ở đình Cổ Loa theo nghi lễ cổ truyền.
Tuy nhiên, người về trẩy hội rất đông. Người ngoại quốc cũng rất nhiều. Người ta đi theo cơ quan, theo xí nghiệp, theo đoàn thể, theo địa phương, theo từng vùng, theo đơn vị. Số đi theo cá nhân cũng không phải là ít. Ở ngoài đường cái quan cũng như các nẻo đường làng, ô tô xếp hàng dài dằng dặc. Xe buýt, xe con đủ các loại mang nhãn hiệu nhiều nước. Xe lam, xích lô, xe đạp, xe máy ôm chạy đi chạy lại đưa khách từ các bến xe về cổ Loa.
Đã về trẩy hội cổ Loa thì dù là dân thường hay cán bộ, bộ đội, dù là người Pháp, người Anh hay người Mỹ… vào đền đều phải thắp hương cúi đầu vái.
Trẩy hội cổ Loa ra về ai cũng có một thứ như huy hiệu, hạt cườm, tràng hạt, dây ngũ sắc… để lưu niệm và củng cố niềm tin vào tương lai.
(Bài viết được trích từ sách “Đền Miếu Việt Nam” do GS. Vũ Ngọc Khánh chủ biên)