“Địa Lý Chỉ Mông”: một văn bản có tính tổng kết
Sách này còn có tên “Quản thị địa lý chỉ mông”. Đây là một tác phẩm về thuật tướng địa mà thể lệ hoàn chỉnh, nội dung phong phú, quan điểm toàn diện.
Quản thị tức là Quản Lộ. Đầu sách có lờii tựa của Quản Lộ, nói rõ động cơ viết sách: “Người ta sinh ra từ ngũ thổ (núi rừng, sông hồ, gò đống, nấm đất, đồng nội) do tác dụng của khí. Khí tắt thì chết, lại về với ngũ thổ, đấy là cái lẽ bạn bản hoàn nguyên”.
Trấp vu ngũ tự, cách vu ngũ phối, ngũ phối mệnh chi, ngũ tự ty chi, đấy là nguyên do họa phúc của con cháu… Có nghĩa là Quản Lộ dùng học thuyết Ngũ hành để luận việc trôn cất, giúp người hoàn nguyên, thống nhất tam tài (Thiên – Địa – Nhân) trong khí.
Toàn thư gồm 10 quyển: cộng 100 mục
– Quyển 1: hữu vô vãng lai, sơn khẩu phối thiên, phối tự, tướng thổ độ địa, tam kỳ, tứ trấn thập tọa, biện chính sóc, thích trung, càn lưu quá mạnh, tượng vật.
– Quyển 2: Khai minh đường, chi phân nghị hợp, thích tí vị, ly sào nhập lộ, hình thế dị tướng, triều tòng dị tướng, tam kinh thích vi, tứ thế tam hình, viễn thế cận hình, ứng án.
– Quyển 3: Lấy huyệt, đắc huyệt, lấy hướng, phúc hướng định huyệt, thừa hưởng vinh quang của tổ tông, cờ ngũ phương, tả hữu thích danh, ngũ quỷ khắc ứng, thù xá tường chẩn, khắc nhân thành thiên.
– Quyển 4: Tam đạo thích vi, địch mạch sùng thế, nhật giả như lữ, ngũ hành ngũ thú, phương viên tương thắng, ngụy kết, tâm mục viên cơ, thích danh, sơn thủy hội ngộ, thịnh suy cải độ.
– Quyển 5: Trạch thuật, tam ngũ thích vi, sơn thủy thích vi, giáng thế trú hành, ly thực thân ngụy, tầm long kinh tự.
– Quyển 6: Vọng thế tâm hành, thủy thành, dương minh tạo tác, trạch nhật thích vi, mê đồ quả học, sức phương thâu thuật.
– Quyển 7: Hang tuyệt động tĩnh, sư thông sư mình, tham kỳ thất hiềm, thông thế chi thuật, tam đình thích vi, xí mạch, bằng ngụy tang chân, quá mạch tán khí, tả hữu thắng phu, tinh thần thích vi, dự định họa phúc, ngũ hành tương đức.
– Quyển 8: Âm dương thích vi, sai sơn nhận chủ, ngũ hành biến động, du cung việt phân, ngũ hành chính yếu, di thiên phát việt, tứ cùng tứ ứng, nhị khí tòng đồng dị, hình thế nghịch tu, thịnh suy chính ứng, cô kỳ cức ngụy, khí mạch thể dụng.
– Quyển 9: Tham phong thất nghi, chi thân nghị hợp, nhân hình nghĩ huyệt, đắc pháp thủ huyệt, tứ thế tam hình, tam cát ngũ hung, hội tú triều tông.
– Quyển 10: Vinh tạ bất đồng, tam gia đoạn liệt bất đồng, hồi long cố tổ, khu ngũ quỷ, thuần túy thích vi, hào li thủ huyệt, diêm tị tuần hoàn, thích thủy thế, âm dương giao cảm, ngũ khí tường chẩn, cửu long tam ứng, hình huyệt sam sai, vọng khí tầm long.
Mục lục này giúp ta nhìn rõ tính hệ thống và tổng hợp của sách, đúng là không thiếu mặt nào, trong đó trọng điểm là âm dương ngũ hành, hình thế, huyệt, hướng, mặt trời.
Thiên “Ngũ quỷ khắc ứng” bàn về ngũ hành, viết: “Do đó thuật tầm long (tìm long mạch) quý ở chỗ biết thịnh suy của ngũ hành, để luận ra trong đục của hai khí âm dương”. Thiên “Tam cát ngũ hung” chỉ rõ: “Thủy có 5 dạng xấu (ngũ hung)” là bạo (ào ào), liêu (lênh láng), trọc (đục ngầu), lại (chảy xiết), than (xối xả), sơn có ngũ hung là “đồng (trọc), đoạn (đứt đoạn), thạch (đá), quá (vượt quá hình thế), độc (đơn côi)”.
Người có ngũ hung bệnh hoạn thương tật, tử biệt sinh ly, tai ương hoạn nạn, chết yểu đơn côi, điên cuồng nóng nảy. Địa thế có ngũ hung là cát đùn đá chồng, lũng sâu nước cạn, cao nhọn chênh vênh, lõm sâu nước đọng, lộ liễu điêu linh”. Sơn thủy có ngũ hung là “núi cao nước dốc, núi ngắn nước thẳng, núi dựng đứng nước bị cắt, núi rối rắm nước chảy lung tung, núi lộ ra hết, nước chảy đi”. Thôn xóm có ngũ hung là “ao đầm tù hãm, đồng ruộng chật hẹp, mương hố nước đọng, sa ghềnh nước réo, soi bãi chuyển dịch”. Âm dương có ngũ hung là: “dương phát âm hành, âm lai dương trú, âm kiềm đương lưu, âm lưu dương triệt (đứt đoạn) âm một (biến mất)”. Ta thấy những hình tượng xấu đều có thể qui nạp vào ngũ hành.
Thiên “Ngũ quỷ khắc ứng” trình bày về cát hung của địa hình: hình như cờ rủ, không hẹn ngày về, chân co đầu ngoảnh lại, phát tích ở nơi khác. Hình như trăng lưỡi liềm, tù đày cầm cố. Hai sừng không nhọn, của vào không ra. Hình như rùa nằm, mồ côi góa bụa. Đuôi rủ không vẫy, vậy là thế ngắn; hình như thước gấp, tay làm hàm nhai. Chặn ngang như cánh cung, cả đời khốn cùng. Hình như chữ Y, lập thân không ra gì. Trùng hôn lưỡng tính, qui tông có thể định. Hình như thuyền lật úp, chết bởi vết thương” …
(Theo sách “Đại điển tích văn hóa Trung Hoa – tập Bí ẩn của Phong thủy”)