“Thanh Nang Hải Giác Kinh”: Một tác phẩm của phái lý khí
“Thanh nang hải giác kinh” còn có tên là “Huyền vũ Thanh nang hải giác kinh”, xưa đề là Quách Phác soạn. Đây là bộ sách tướng địa dài bảy vạn chữ. Sách lấy “Chu Dịch” làm chủ đạo, đề cao quái lý.
Lời tựa đầu sách viết: “Huyền nữ giáng chất, thần thông thiên địa, về số, quán triệt cả cõi u minh, về đạo thì tuân theo Hà (đồ) Lạc (thư), quái (quẻ) bao khắp càn khôn: mở đầu canh giáp, làm tỏ ngũ hành,… đất nước được sách này thì thái bình, gia đình được sách này thì giầu có”. Lời tựa nói rõ sách này biên soạn theo thuyết ngũ hành.
Sách gồm bốn quyển. Mục lục quyển một có: Thái vô thuỷ khí đồ thuyết; Thái hữu trung khí đồ thuyết; Thái vô chung khí đồ thuyết; Ngũ vận lục khí kinh thiện đồ thuyết; Thiên địa thuỷ số đồ thuyết; Đại nguyên trung số đồ thuyết; Hỗn giáp nạp âm đồ; Âm dương thăng giáng nạp giáp đồ thuyết; Thái nguyên thuỷ dịch đồ thuyết; Thái nguyên trung dịch đồ thuyết; Phù tâm phương khí đổ thuyết; Số khôi thiên địa đồ thuyết; Tứ khí nguyên bào đồ thuyết; Thái dương xuất một đồ thuyết; Lục nhâm nguyên bào đồ thuyết; Cấn Bính long thâu nạp sa thuỷ đồ; Tốn Tân long thâu nạp sa thuỷ đồ; Khảm Quí Thân Thìn long thâu nạp sa thuỷ đồ; Chấn Canh Hợi Mùi long thâu nạp sa thủy đồ; Đoài Đinh Tị Sửu long thâu nạp sa thuỷ đồ; Li Chấn Dần Tuất long khâu nạp sa thuỷ đồ; Quái lệ quyết; Thiên phụ quái khởi lệ; (Càn, Tốn, Chấn, Đoài, Khảm lý); Địa mẫu quái khởi lệ đồ; Trừu hào đắc phối thất phối đồ; Bát quái đồ; (Khôn Ất, Cấn Bính, Chấn Canh Hợi Mùi, Ly Nhâm, Dần Tuất, Tốn Tân, Đoài Đinh, Tị Sửu, Khảm Quí, Nhâm Thìn, Cấn Giáp) long huyệt sa thuỷ đồ; Địa mẫu biến hào quái lệ đồ thuyết.
Trong quyển một, tác giả dùng hình vẽ và chữ bàn về nguồn gốc của vật, cho rằng Thái vô đầu tiên sinh ra khí, mênh mang mênh mang; Thái trung khí, cũng sinh ra từ không; Thái nguyên chuyển động, thiên địa giúp cho sinh trưởng; hữu vô chung khí, tạo ra vạn vật; trời đất dần dần hiện ra, quyết định toàn bộ sự vật; Giáp Tí hỗn hợp mà thành, bát quái phối hợp mà có; Càn Khôn Cấn Tốn là bốn ngao của trời đất; đất, nước, lửa, gió lần lượt hoá thành. Tất cả qui kết một ý: “Hễ táng mà không được khí lành, thì con cháu bị hãm trong bại tuyệt, (vì vậy) việc mai táng không cẩn thận sao được?
Quyền hai gồm: Khưu công tụng; Cửu diệu tam cát tụng; Thanh nang quyền hành; Thiên cơ quyền hành; Tầm long luận lý.
Trong quyển hai, tác giả bàn về âm dương bát quái, nói “Bát tinh có chủ nào ai biết, dưới đất tôn xưng ít người hay”. “Cấn là bát úp ít người hiểu, phải từ ngũ hành mà suy ra; trên trời Tham lang thêm Vũ khúc, nhân đinh thịnh vượng, không bao giờ suy thoái”. Quẻ Cấn trung bát quái tựa cái bát úp, một số địa hình có hình quẻ Cấn thì có thể kết hợp với ngũ hành để suy đoán lành dữ. Quyển này còn giảng về chọn long huyệt cho mộ táng, có long giác (sừng rồng) long tị (mũi rồng) long nhĩ (tai rồng) long yêu (lưng rồng) long tề (bụng rồng) long túc (chân rồng) long vĩ (đuôi rổng)v.v… Phàm là “táng vào bụng rồng (Sửu Cấn), án tại rồng (Mùi Khôn) thì chỉ trong ba năm đã có thiên lộc, con cháu giàu sang”; hễ “táng vào chân rồng (Dậu Tân), án đuôi rồng (Mão Ất) thì không cơm ăn áo mặc, vong gia thất thổ”.
Quyển Ba gồm các mục: Quả đường hải giác quyền hành; Tống Dương khai hoàng bảo chiếu hải giác quyền hành; Quả đường tụng; hai mươi bốn Kiềm khẩu; Mạnh Trọng Quí long định phú quí huyệt quyết; (thượng, trung, hạ) hành thuỷ quyết pháp; Thanh nang hải giác quyền hành; Đầu đà nạp tí luận; Táng pháp; mị long; điểm huyệt; quan sa; sát thuỷ.
Quyển Ba bàn về điểm huyệt. Tác giả bàn về 24 sơn hướng, viết: “24 sơn, 19 sát, trên đời dễ ai biết phép này? Ai mà hiểu được thiên cơ này, thì táng giờ Dần, giờ Mão phát!”. Nói vậy có nghĩa là, trừ Càn Khôn Cấn Tốn Bính, còn tất cả các phương vị khác đều phạm sát. Nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể mà biến hoá bằng phương pháp bổ cứu. Hợi long Nhâm huyệt, Cấn long Quí huyệt, Tốn long Ất huyệt, mỗi loại đều có hoạ phúc.
Quyển Bốn gồm các mục: Huyệt pháp; Thi quyết; Thủy pháp; Kỵ long trảm quan ca; Huyệt pháp phú; Xảo quật huyệt pháp; 24 sơn ngũ hành thuỷ pháp khởi trường sinh quyết; (Thuỷ, Thổ, Hoả, Kim, Mộc) cục khởi trường sinh đồ; 24 sơn hướng quyết; Hình khí thiên; Lý khí thiên; Cẩm nang thiên; Đạo pháp song đàm trích cú; Phôi thai; Học bộ; Ngũ tinh chính thể đồ thuyết; Cửu tinh song thê đồ thuyết; Nhị luyện cách đồ thuyết; Tam đại thế; Quí can; Thân khí. Khí tượng: Lục tín; Nhận mạch; Kết huyệt; Biện huyệt; Huyệt thổ; Hóa khí; Tinh tính; Đồ thông; Đãi duyên; Phẩm cấp; Điểm huyệt; Phụ đạo pháp song đàm thuật.
Quyển Bốn cũng bàn về điểm huyệt.”Thanh nang thiên” viết: “Thiên tinh địa hình, trên dưới có quan hệ với nhau. Sơn không nhập tướng thì hình không nhập tinh. Méo mó lệch lạc, gia nghiệp chủ hung. Do gốc mà tìm ngọn, do cây mà tìm cành. Sơn dị chi (núi khác nhánh), thủy dị nguyên (nước khác nguồn), cái lí của âm dương tồn tại trong đó. Âm dương giao hòa thì thiên địa thái (yên lành), sơn thủy hội hợp thì khí mạch hòa hợp” Tam đạt thế viết: “Thế không ngoài tính cách, chỉ là cao thấp to nhỏ xa gần khác nhau trong đánh giá mà thôi”. Nhìn chung, sách này có hai đặc điểm: Một là trong khi biên soạn đã viện dẫn lí luận về phong thủy của các bậc thầy như Dương Quân Tùng, Tăng Văn Thuyên; Hai là, thiên về dịch lý, quái khí. Từ các đoạn văn đã dẫn trên, chỗ nào cũng nói đến âm dương bát quái, mà ít nói về hình thế. Từ đó suy ra sách này là của trường phái lý khí của Phúc Kiến viết ra.