Bước thứ hai: ĐIỀU HƠI THỞ
Hơi thở:
Sau khi điều thân thuần thục, quán thân vô thường, quán tâm hư vọng nhuần nhuyễn. Chúng ta sẽ thực hiện pháp tu hơi thở: ta biết rõ hơi thở mà không hề can thiệp, không hề điều khiển.
Hơi thở vào, ta biết rõ hơi thở vào.
Hơi thở ra ta biết rõ là hơi thở ra.
Hơi thở vào dài, ta biết rõ hơi thở vào dài.
Hơi thở ra dài, ta biết rõ hoi thở ra dài.
Hơi thở vào ngắn, ta biết hơi thở vào ngắn.
Hơi thở ra ngắn, ta biết rõ hơi thở ra ngắn.
Tức là hơi thở dài hay ngắn, ta đều biết rõ. Nhưng điều quan trọng ở đây là biết mà không can thiệp vào, không điều khiển hơi thở dài hay ngắn theo ý mình. Chỉ đơn giản là biết mà thôi. Có khi hơi thờ dài, có khi hơi thở ngắn, ta chỉ yên lặng biết rõ mà thôi.
Có hai cực đoan cần phải tránh về hơi thờ, đó là:
Một là không biết rõ về hơi thở.
Hai là biết mà can thiệp vào hơi thở.
Trung đạo của phương pháp hơi thở chính là biết rõ một cách thụ động, không điều khiển, không can thiệp vào.
Vì sao biết mà không can thiệp?
Vì có biết thì tâm mới tỉnh, vì có cảnh giác mới biết rõ hơi thở. Ta không can thiệp vì hễ có tác ý can thiệp điều khiển vào, sẽ làm cho hơi thở bị bế tắc ngưng trệ, tức ngực và Bản Ngã tăng trưởng.
Trong suốt thời gian ngồi thiền, chắc chắn hơi thở sẽ không đều đặn, những vọng động bí mật của nội tâm sâu kín sẽ chi phối vào hơi thở, khiến cho hơi thở khi mạnh khi yếu, khi dài khi ngắn khác nhau.
Khi nội tâm yên tĩnh, hơi thở êm dịu và dài hơn. Khi nội tâm xung động, dù âm thầm, hơi thở sẽ mạnh và ngắn hơn.
Kết họp hơi thở với các phép quán:
Kết hợp hơi thở với biết rõ toàn thân:
Hơi thở vào, biết rõ toàn thân.
Hơi thở ra, biết rõ toàn thân.
Khi biết rõ hơi thở, chúng ta vẫn biết rõ toàn thân, và để ý biết nhiều ở dưới bụng và dưới chân, đồng thời, biết cả hơi thở một cách rõ ràng, nhẹ nhàng, không nhầm lẫn để giúp cho khí lực được lắng xuống dưới giúp cho não ổn định trong sự tu tập.
Hơi thở này nhắc chúng ta không được quên biết rõ khắp thân. Và suốt đời chúng ta không bao giờ được quên công phu biết rõ toàn thân này.
Kết hợp hơi thở với quán thân vô thường:
Hơi thở vào, biết thân này là vô thường.
Hơi thở ra, biết thân này là vô thường.
Ta vừa để tâm dưới bụng, vừa biết hơi thở nhẹ nhàng cùng một lúc.
Hơi thở này giúp chúng ta dần dần phá vỡ việc chấp thân.
Kết hợp hơi thở với lòi nguyện:
Hơi thở vào, nguyện lòng thương yêu chúng sanh.
Hơi thở ra, nguyện lòng thương yêu chúng sanh.
Vẫn tiếp tục vừa để tâm dưới bụng vừa biết hơi thở nhẹ nhàng.
Hơi thở này có công năng diệt trừ vọng tưởng rất tốt những khi vọng tưởng quá mạnh hay làm ta thất niệm. Chính cái phước của tâm từ bi giúp cho ta tỉnh giác hơn và thoát ra vọng tưởng.
Kết hơp với tâm hư vọng:
Hơi thở vào, biết tâm này vẫn còn phiền động.
Hơi thở ra, biết tâm này vẫn còn phiền động.
Hơi thở này được áp dụng khi tâm đã được yên lắng để ngăn chặn tâm niệm kiêu mạn, tự hào bí mật khởi lên.
Dù tâm có yên lắng, nhưng phiền não, xao động, vọng tưởng, chấp trước bí mật đang nằm khuất kín trong tâm thức ta, vẫn có thể xuất hiện, khuấy động một cách bất ngờ.
Vì vậy sự cảnh giác, không chủ quan là điều cần thiết cho người tu tập thiền định. Và cũng chính là Công đức – công đức giúp xóa dần Bản ngã tiềm ân trong tâm thức và củng cố đạo đức cho người tu tập.
Tóm lại:
Mới ban đầu, ta chỉ vừa thở vừa biết rõ toàn thân.
Lâu ngày tự nhiên biết rõ thêm nội tâm dù khống cố ý.
Lúc đó, ta vừa biết hơi thở, vừa biết toàn thân, vừa biết nội tâm. Cùng một lúc biết cả ba điều mà vẫn nhẹ nhàng thoải mái.
(Theo “Hướng dẫn thiền” của Nhà xuất bản tôn giáo)