Đấu số nhất, ngũ, cửu, thập cung tại sao là sống số cung?
Bản dịch:
Nhất, gần đây có vị dễ giao hữu ở cá nhân bộ lạc cách (hà lạc phi tinh tử vi đấu số công tác phường hỏi hữu quan “Nhất, ngũ, cửu, thập cung tại sao là sống số cung?”, câu hỏi này đề trừ thượng liên quan đến ngã cung cùng hắn ngoài cung, thành thật không khách khí giảng, bất kể là trên phố thư tịch hoặc là đấu số giáo thụ người, sợ rằng chân chính tương kì nói rõ không nhiều lắm, có lẽ là cho rằng đấu số ngã cung, hắn cung hoặc sinh số cung không là vấn đề, học tập đấu số người hẳn là cũng giải trừ, không có tái giải thích ý nghĩa, dồn hời hợt đái quá vị dư coi trọng.
Nhị, bất quá cá nhân cho rằng đấu số trụ cột công phu “Cung, tinh, tượng” đều giữ lấy rất nặng đốt, bởi vậy đối tên gọi định nghĩa có hay không hoàn toàn giải trừ, cũng quan hệ người học tập đấu số của lương dũ. Phi tinh tứ hóa tử vi đấu số là căn cứ “Nhất lục đồng tông, cửu cung giấu khí” của hà lạc nguyên lý, mà diễn sinh ra thiên địa nhân tam dễ hợp nhất của suy luận để ý thì, sở dĩ đừng xem càng thoạt nhìn trụ cột đông tây, thường thường là đặt móng, ôm cây yếu tố, cơ sở không được ôm thực hoặc không tốn sức kháo, thì hội ứng nghiệm nhất cú cách ngôn: “Luyện quyền không luyện công, đến già công dã tràng” sau khi quả, cho nên riêng soạn nghĩ đến đây văn chương, tịnh ban PO đi ra cung tác tham khảo.
Tam, cần đến đây vấn đề, đầu tiên hẳn là trước giải trừ cung vị của phân biệt? Thông thường đấu số tương cung vị khái phân như sau:
◎ lục thân cung: Cung mệnh, huynh đệ cung, cung phu thê, cung tử nữ, nô bộc cung, cung phụ mẫu.
◎ lục dương cung: Cung mệnh, cung phu thê, cung tài bạch, cung thiên di, cung Quan lộc, cung phúc đức.
◎ lục âm cung: Huynh đệ cung, cung tử nữ, cung tật ách, nô bộc cung, cung điền trạch, cung phụ mẫu.
◎ lục nội cung: Cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch, cung phúc đức, cung tật ách.
◎ lục ngoại cung: Huynh đệ cung, cung phu thê, cung tử nữ, cung thiên di, nô bộc cung, cung phụ mẫu.
Tứ, đã ngoài cung vị phân chia, ở lục dương cung, lục âm cung thượng, nhân dương cung là chỉ, âm cung là ngẫu, cho nên so sánh không tranh cãi, duy ở lục nội cung, lục ngoại cung của nhận định thượng, thì có khu dã bất đồng:
◎ giống nhau dễ giao hữu ở đấu số vận dụng lên, tương lục nội cung: Cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch, cung phúc đức, cung tật ách, xưng là “Ngã cung” . Lục ngoại cung: Huynh đệ cung, cung phu thê, cung tử nữ, cung thiên di, nô bộc cung, cung phụ mẫu, xưng là “Hắn cung” .
◎ trên phố thuộc về bắc phái người, thí dụ như khâm Thiên môn thái thị phe hoặc đại dễ nguyên tử dương phe đều là lấy cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch, cung phúc đức, cung tật ách tức 1, 5, 6, 9, 10, 11 giới định cho ta cung. Mà thuộc phi tinh tứ hóa của hà lạc phái (tằng thị) phương ngoại nhân, cũng lấy cung mệnh, huynh đệ cung, cung tài bạch, cung tật ách, cung Quan lộc, cung điền trạch tức 1, 2, 5, 6, 9, 10 giới định cho ta cung. Hai người sai biệt ở 11 phúc đức và 2 huynh đệ.
◎ mặt khác sắp tới xuất bản “Cửu thiên phi tinh” một lá thư, tác giả thì tương cung mệnh, cung tài bạch, cung tật ách, cung Quan lộc, cung điền trạch, cung phúc đức tức 1, 5, 6, 9, 10, 11 lục nội cung xưng là ngã cung; kỳ vừa tái cử liệt ra trong đó cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch tức 1, 5, 9, 10 tứ cung ban khiếu tác 『 tự thân cung 』.
Ngũ, phía trước cá nhân đã nói rõ phi tinh tứ hóa tử vi đấu số là căn cứ Hà đồ lạc thư của “Nhất lục đồng tông, cửu cung giấu khí” của dễ để ý mà đến. Là lấy hà đồ làm thể, lạc thư là sử dụng, mà đấu số gốc rể mệnh bàn là trời bàn, đương nhiên thái lấy hà đồ làm thể lai sắp hàng, cũng nói đúng là là tuần hoàn “Nhất lục đồng tông” để ý thì mà định.
Lục, nhân đấu số mệnh bàn hệ lấy mệnh, tài, quan tam mới là ta đứng đầu thể, tái bộ nhập “Nhất lục đồng tông” để ý thì, tịnh đái nhập 12 một cung vị hậu, lai phân ra ta, hắn cung chi biệt, lấy mệnh tức 1 nói, kỳ 6 là tật, tái lấy tật là 1, kỳ 6 là phúc (tức 11); thứ nhì, lấy tài ( 5) là 1, kỳ 6 là điền (tức 10); cuối cùng cung Quan lộc là 9, nhược lấy “Nhất lục đồng tông” đẩy ra cung vị thì, đã vượt lên trước 12 một cung vị bên ngoài, cho nên không đáng kế liệt. Tống thượng án “Nhất lục đồng tông” để ý thì suy tính ra của mệnh, tài, quan tam phương cung vị kế có: Cung mệnh, cung tật ách, cung phúc đức, cung tài bạch, cung điền trạch, cung Quan lộc, ở đấu số mệnh lý thượng xưng là “Ngã cung” hoặc “Lục nội cung” .
Thất, đến nỗi hà lạc phái (tằng thị) phương ngoại nhân sở dĩ tương cung mệnh, huynh đệ cung, cung tài bạch,, cung tật ách, cung Quan lộc, cung điền trạch tức 1, 2, 5, 6, 9, 10 giới định cho ta cung. Trong đó sai biệt chỗ, là tương mệnh, tài, quan tam phương án “Nhất lục đồng tông” để ý thì, đều phân biệt thủ kỳ thứ 6 vị, tức mệnh → tật, tài → điền, quan → huynh sở trí, loại này nhận định hoặc quan điểm có hay không chính xác, cá nhân cận dành cho tham khảo, không làm bất luận cái gì bình luận, còn chờ các vị dễ giao hữu hoặc hậu học giả mình khứ chứng thực.
Bát, tiếp theo nói tới 『 nhất, ngũ, cửu, thập cung tại sao là sống số cung? 』, cũng phi như “Cửu thiên phi tinh” tác giả quán lấy 『 tự thân cung 』 tức là nếu nói 『 sinh số cung 』. Trên lý thuyết hay là muốn trở về “Hà đồ số” đến xem, ở [ dịch học vỡ lòng ] hữu vân: “Thiên suốt đời thủy, địa lục thành của, địa nhị nhóm lửa, thiên thất thành của, thiên tam sinh mộc, địa tám phần mười của, địa tứ sinh kim, thiên cửu thành của, thiên ngũ đất mới, địa thập thành của. Hà đồ số lấy sinh số là việc chính, lấy sinh đếm một hai ba tứ ngũ, chỉ huy số tròn lục thất tám chín thập, sinh số cư sinh nội, số tròn thành sinh ngoại, trong người là việc chính, ngoại người là khách, kỳ và trùng hợp ngẫu nhiên, ngũ hành sinh yên.”
Cửu, dựa vào tiền thuật để ý thì tương suy luận đi ra của “Ngã cung” hoặc “Lục nội cung”, tức cung mệnh, cung tật ách, cung phúc đức, cung tài bạch, cung điền trạch, cung Quan lộc, dựa theo đấu số cung vị “Số” sắp hàng, cung mệnh là 1, cung tài bạch là 5, cung tật ách là 6, cung Quan lộc là 9, cung điền trạch là 10, cung phúc đức là 11. Mà hà đồ số là lấy sinh số là việc chính, kỳ sinh số lớn nhất là 5, cho nên “Ngã cung” hoặc “Lục nội cung” trung trừ cung mệnh là 1, cung tài bạch là 5 là đương nhiên của 『 sinh số cung 』 ngoại, kỳ sinh phàm vượt lên trước 5 người, giai lấy giảm 5 hậu luận của:
1. Cung tật ách: 6– 5= 1
2. Cung Quan lộc: 9– 5= 4
3. Cung điền trạch: 10– 5= 5
4. Cung phúc đức: 11- 5= 6
Thập, do tương giảm sau khi đoạt được, có thể minh xác nhìn ra cung tật ách số là 1, duy nhân mệnh tật làm một thể, có mệnh phương có thân thể, cho nên thái lấy cung mệnh 1 là việc chính; mà cung phúc đức tương giảm hậu là 6, đã rơi vào số tròn phạm vi, không đáng nhét vào, bởi vậy ở mệnh lý vận dụng lên mới có thể tương 『 cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch 』 tức 1. 5. 9. 10 cung xưng là 『 sinh số cung 』.
(Dịch tự động bằng Quick Translator)
Bản gốc:
斗數一、五、九、十宮為什麼是生數宮?
一、近來有位易友在個人部落格(河洛飛星紫微斗數工作坊http://tw.myblog.yahoo.com/aaron411109-aaron411109)詢問有關「一、五、九、十宮為什麼是生數宮?」,此一問題除尚涉及我宮與他宮外,老實不客氣地講,不管是坊間書籍或是斗數教授者,恐怕真正將其說明白的不多,也許是認為斗數我宮、他宮或生數宮不是問題,學習斗數者應該都瞭解,沒有再解釋的意義,致輕描淡寫地帶過未予重視。
二、不過個人認為斗數基礎的功夫「宮、星、象」均佔有頗重的環節,因此對名稱定義是否完全瞭解,也關係者學習斗數之良窳。飛星四化紫微斗數是依據“一六同宗、九宮藏氣”之河洛原理,而衍生出天地人三易合一之推論理則,所以別看愈是看起來基礎的東西,往往是奠基、紮根的要素,基礎不紮實或不牢靠,則會應驗一句老話:「練拳不練功,到老一場空」之後果,故特地撰擬此文章,並予以PO出來供作參考。
三、要談此問題,首先應該先瞭解宮位之分別?通常斗數將宮位概分如下:
◎六親宮:命宮、兄弟宮、夫妻宮、子女宮、奴僕宮、父母宮。
◎六陽宮:命宮、夫妻宮、財帛宮、遷移宮、官祿宮、福德宮。
◎六陰宮:兄弟宮、子女宮、疾厄宮、奴僕宮、田宅宮、父母宮。
◎六內宮:命宮、財帛宮、官祿宮、田宅宮、福德宮、疾厄宮。
◎六外宮:兄弟宮、夫妻宮、子女宮、遷移宮、奴僕宮、父母宮。
四、以上宮位劃分,在六陽宮、六陰宮上,因陽宮為單、陰宮為偶,故較無爭議,惟在六內宮、六外宮之看法上,就有區野不同:
◎一般易友在斗數運用上,將六內宮:命宮、財帛宮、官祿宮、田宅宮、福德宮、疾厄宮,稱之為「我宮」。六外宮:兄弟宮、夫妻宮、子女宮、遷移宮、奴僕宮、父母宮,稱為「他宮」。
◎坊間屬於北派者,譬如欽天門蔡氏一系或大易源子陽一系都是以命宮、財帛宮、官祿宮、田宅宮、福德宮、疾厄宮即1、5、6、9、10、11界定為我宮。而屬飛星四化之河洛派的(曾氏)方外人,卻是以命宮、兄弟宮、財帛宮、疾厄宮、官祿宮、田宅宮即1、2、5、6、9、10界定為我宮。兩者差異在11的福德和2的兄弟。
◎另外近期出版的「九千飛星」一書,作者則將命宮、財帛宮、疾厄宮、官祿宮、田宅宮、福德宮即1、5、6、9、10、11的六內宮稱為我宮;其又再舉列出其中的命宮、財帛宮、官祿宮、田宅宮即1、5、9、10四宮予以叫作『自身宮』。
五、前面個人已說明了飛星四化紫微斗數是依據河圖洛書之“一六同宗、九宮藏氣”之易理而來。乃以河圖為體、洛書為用,而斗數之本命盤為天盤,當然採以河圖為體來排列,亦就是說乃遵循「一六同宗」的理則而定。
六、因斗數命盤係以命、財、官三方為我之主體,再套入「一六同宗」的理則,並帶入12個宮位後,來分出我、他宮之別,以命即1言,其6為疾,再以疾為1,其6為福(即11);其次,以財(5)為1,其6為田(即10);最後官祿宮為9,若以「一六同宗」去推宮位時,已超過12個宮位以外,故不予計列。綜上按「一六同宗」理則推算出之命、財、官三方宮位計有:命宮、疾厄宮、福德宮、財帛宮、田宅宮、官祿宮,在斗數命理上稱為「我宮」或「六內宮」。
七、至於河洛派的(曾氏)方外人所以將命宮、兄弟宮、財帛宮、、疾厄宮、官祿宮、田宅宮即1、2、5、6、9、10界定為我宮。其中差異之處,乃將命、財、官三方按「一六同宗」的理則,均分別取其第6位,即命→疾、財→田、官→兄所致,此種看法或觀點是否正確,個人僅提供參考,不作任何評論,有待各位易友或後學者自我去驗證了。
八、接著談到『一、五、九、十宮為什麼是生數宮?』,也並非如「九千飛星」作者冠以『自身宮』即是所謂的『生數宮』。理論上還是要回歸「河圖之數」來看,在【易學啟蒙】有云:「天一生水,地六成之,地二生火,天七成之,天三生木,地八成之,地四生金,天九成之,天五生土,地十成之。河圖之數以生數為主,以生數一二三四五,統率成數六七八九十,生數居於內,成數成於外,中者為主,外者為客,奇與偶合,五行生焉。」
九、依前述理則將推論出來之「我宮」或「六內宮」,即命宮、疾厄宮、福德宮、財帛宮、田宅宮、官祿宮,按照斗數宮位「數」的排列,命宮為1、財帛宮為5、疾厄宮為6、官祿宮為9、田宅宮為10、福德宮為11。而河圖之數乃以生數為主,其生數最大為5,故「我宮」或「六內宮」中除命宮為1、財帛宮為5為當然之『生數宮』外,其於凡超過5者,皆以減5後論之:
1.疾厄宮:6–5=1
2.官祿宮:9–5=4
3.田宅宮:10–5=5
4.福德宮:11-5=6
十、由相減之後所得,可以明確地看出疾厄宮之數為1,惟因命疾為一體,有命方有身體,故採以命宮1為主;而福德宮相減後為6,已落入成數範圍,不予納入,因此在命理運用上才會將『命宮、財帛宮、官祿宮、田宅宮』即1.5.9.10宮 稱為『生數宮』。
不要忘记清理HTML代码,并在发布文章之前仔细检查您的内容!保持在线内容清洁。