Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân
Bài viết chép lại của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org
Phần 1: An sao của phái Tử Vân
Phép lập lá số tử vi đẩu số thủ công
1. Xét duyệt lại ngày sinh và giờ sinh.
a. Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc rất rộng lớn, đối với ngày giờ sinh ở những địa phương không thuộc Trung Nguyên, phương pháp là dùng ngày giờ âm lịch của địa phương nơi sinh ra.
b. Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, Quảng Châu là 113 độ kinh đông; mỗi độ 4 phút đồng hồ, như vậy người sinh ở Quảng Châu vào lúc 14h00, hoán chuyển thành thời gian Bắc Kinh thành ra 13h32′.
c. Theo Tử Vân tiên sinh nói, rất ít người sinh ra mà được đối chiếu chỉnh sửa ngày giờ cho chính xác, rõ hơn xin xem trong sách “Đẩu Số luận huynh đệ”.
2. Vấn đề tháng Nhuận.
Tháng Nhuận đại thể lấy cùng tháng đó mà bài bố an sao, như tháng 10 Nhuận thì dựa vào tháng 10 mà bài bố; ngoai ra cứ phỏng theo như thế.
3. Định ngũ hành Dần thủ
Giáp Kỷ <Bính>; Ất Canh <Mậu>; Bính Tân <Canh>; Đinh Nhâm <Nhâm>; Mậu Quý <Giáp>.
4. An Mệnh Thân cung
Dần cung khởi tháng Giêng, đếm nghịch đến tháng sinh “Mệnh”; đếm thuận đến tháng sinh “Thân” (QNB chú: chắc ghi nhầm nhầm lẫn thuận với nghịch, tháng với giờ – tôi dịch nguyên văn.). An xong xuôi Mệnh Thân cung rồi sau đó có thể bài bố các cung vị khác.
5. Định ngũ hành Cục cùng với khởi Đại Hạn
Lấy Thiên Can Địa Chi của vị trí sở tại của Mệnh cung để tìm ra Ngũ hành Cục.
Ngũ hành Cục có tác dụng để khởi Đại Hạn: Dương nam âm nữ thuận đáo; âm nam dương nữ nghịch hành.
6. Định sao Tử Vi và Thiên Phủ
Định sao Tử Vi: phương pháp căn cứ vào ngày sinh chia cho số cục của ngũ hành cục.
[Ngũ hành cục số] ÷ [số ngày sinh] = thương số6.1 Nếu chia chẵn, thì thương số tức là vị trí tọa lạc của sao Tử Vi. Như sinh ngày 27, Mộc tam Cục, thì thương số là 9, từ cung Dần khởi 1, đếm thuận đến 9 là cung Tuất, Tử Vi an tại Tuất.
6.2 Nếu không thể chia chẵn (tức là phép chia có số dư), thì lấy ngày sinh mà cộng thêm một số tự nhiên nhỏ nhất để có thể chia chẵn cho Cục số. Như sinh ngày 27, Kim tứ Cục, thì (27+1)÷4=7, lúc này từ Dần đếm thuận đến 7 là cung Thân, mà vốn dĩ sử dụng 27 cộng thêm 1, cho nên phải lùi lại 1 cung, tức là ngày 27 của Kim tứ Cục thì Tử Vi ở tại cung Mùi.
Chú: nếu như số tự nhiên mà được cộng thêm là số lẻ thì mới lùi ngược lại, còn là số chẵn thì tiến thuận, công thêm số nào thì lùi/tiến đúng bằng số ấy cung.
Định xong sao Tử Vi có thể định sao Thiên Phủ, mối quan hệ của chúng là 2 sao này đối xứng qua trục Dần Thân.
7. An các Chính Tinh cấp Giáp còn lại
Khẩu quyết:
Tử Vi, Thiên Cơ tinh nghịch hành,
Cách nhất Dương, Vũ, Thiên Đồng tình;
Hựu cách nhị vị Liêm Trinh đệ,
Không tam tiện thị Tử Vi tinh.
Thiên Phủ, Thái Âm thuận Tham Lang, (câu này viết nhầm chữ Âm thành Dương, QNB đã sửa lại)
Cự Môn, Thiên Tướng dữ Thiên Lương;
Thất Sát không tam Phá Quân vị,
Cách cung vọng kiến Thiên Phủ hương.
8. Miếu hãm của tinh diệu
(QNB chú: nguyên văn không ghi gì cả).
9. An lục sát cùng lục cát tinh
– Tả Phụ “Thìn” cung khởi chính nguyệt, thuận hành chí sinh nguyệt;
Hữu Bật “Tuất” cung khởi chính nguyệt, nghịch hành chí sinh nguyệt.
– Văn Xương “Tuất” cung khởi Tý thì, nghịch hành chí sinh thì;
Văn Khúc “Thìn” cung khởi Tý thì, thuận hành chí sinh thì.
– An Thiên Khôi, Thiên Việt
Khẩu quyết:
Giáp Mậu Canh ngưu dương < Việt >,
Ất Kỷ thử hầu < Việt > hương.
Bính Đinh trư kê < Việt > vị,
Nhâm Quý thỏ xà < Việt > tàng.
Lục Tân phùng mã < Việt > hổ,
Thử thị quý nhân hương.
– Kình Đà theo việc định Lộc Tồn của Thiên Can năm sinh rồi sau đó an bài, không nói rườm rà.
– An hai sao Hỏa Linh <lấy Địa Chi năm sinh và giờ sinh để tìm được>
Dần Ngọ Tuất: Hỏa < Sửu >, Linh < Mão > khởi giờ Tý thuận hành
Thân Tý Thìn: Hỏa < Dần >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành
Tị Dậu Sửu: Hỏa < Mão >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành
Hợi Mão Mùi: Hỏa < Mậu >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành
Quyết viết:
Dần Ngọ Tuất nhân sửu mão phương,
Thân Tý Thần nhân dần tuất dương;
Tị Dậu Sửu nhân mão tuất vị,
Hợi Mão Mùi nhân dậu tuất phòng.
(QNB chú: Hỏa Linh họ đều cho đi thuận cả, có khác biệt với Tử Vi Việt).
–
Địa Không từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, nghịch hành đến giờ sinh,
Địa Kiếp từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, thuận hành đến giờ sinh.
10. Khởi an Tứ Hóa theo thiên can năm sinh, không nói rườm rà. Chú: phái Tử Vân dùng can Quý thì Thái Dương hóa Khoa (QNB chú: dịch nguyên văn, có lẽ viết nhầm chữ Âm thành Dương).
11. An các tạp diệu còn lại
–
Thiên Hình < Dậu > cung khởi tháng Giêng, thuận hành đến tháng sinh;
Thiên Diêu < Sửu > cung khởi chính nguyệt, thuận hành đến tháng sinh.
Quyết viết:
Thiên Diêu sửu thượng thuận chính nguyệt,
Thiên Hình dậu thượng chính nguyệt luân;
Đếm đến tháng sinh đều dừng bước, liền an Hình Diêu hai tinh thần.
–
Hồng Loan < Mão > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh;
Thiên Hỉ < Dậu > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh.
Quyết viết:
Hồng Loan mão thượng Tý niên khởi,
Nghịch hành số chí sinh niên chỉ;
Đối cung ký thị Thiên Hỉ tinh,
Vận hạn mệnh phùng thiên hữu hỉ.
< Hai sao này vĩnh viễn ở tại đối cung >
– Hàm Trì < Đào Hoa sát >
lấy Chi năm sinh an bài, quyết viết:
Dần Ngọ Tuất, thỏ tòng mao lý xuất;
Thân Tý Thìn, kê khiếu loạn nhân luân;
Hợi Mão Mùi, thử tử đương đầu tọa;
Tị Dậu Sửu, dược mã nam phương tẩu.
– Thiên Mã
Căn cứ Chi năm sinh, quyết viết:
Thân Tý Thìn nhân mã cư dần,
Dần Ngọ Tuất nhân mã cư thân;
Hợi Mão Mùi nhân mã cư tị,
Tị Dậu Sửu nhân mã cư hợi.
– An Tam Thai, Bát Tọa
Lấy ngày sinh để an bài, quyết viết:
Tam Thai, Tả Phụ thuận sơ nhất,
Số chí sinh nhật thị Thai cung.
Bát Tọa, Hữu Bật nghịch sơ nhất,
Số chí sinh nhật định kỳ tung.
– An Long Trì, Phượng Các
Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Long Trì, khởi Tý thuận hành Thìn,
Sinh niên tiện thị phúc nguyên chân;
Phượng Các, Tuất thượng nghịch số Tý,
Ngộ chí sinh niên thị cát niên.
(Long trì từ Thìn khởi, hô Tý đếm thuận đến chi năm sinh. Phượng Các từ Tuất khởi, hô Tý đếm nghịch đến Chi năm sinh).
– An Thai Phụ, Phong Cáo
Khúc tiền tam vị thị Thai Phụ, Khúc hậu tam vị Phong Cáo hương.
(Vị trí thứ 3 trước Văn Khúc là Thai Phụ, Vị trí thứ 3 sau Văn Khúc là Phong Cáo).
Khởi lệ: Giả như Văn Khúc tai Tý thì cung Dần an Thai Phụ, vị trí thứ 3 sau Khúc chính là Tuất cung an Phong Cáo. Ngoài ra phỏng theo như thế, nhưng lấy bản cung của Văn Khúc mà khởi số.
– An Thiên Quý, Ân Quang
Quyết viết:
Văn Xương thuận số chí sinh nhật,
Thối hậu nhất bộ thị Ân Quang;
Văn Khúc thuận số chí sinh nhật,
Thối hậu nhất bộ Thiên Quý tràng.
QNB chú: không rõ là ở chỗ Thiên Quý bị chép nhầm chữ “nghịch” thành ra “thuận” hay là có sự khác biệt an sao với cách chúng ta vẫn dùng.
– An Cô Thần, Quả Tú
Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Dần Mão Thìn nhân an Tị Sửu < tị cô >
Tị Ngọ Mùi nhân phạ Thân Thìn < thân cô >
Thân Dậu Tuất nhân cư Hợi Mùi < hợi cô >
Hợi Tý Sửu nhân Dần Tuất điền < dần cô >
QNB chú: xem cách chú thích trong bài này để rõ hơn về cách chú thích của họ trong bài quyết an Khôi Việt.
– An Thiên Hư Thiên Khốc
Quyết viết:
Thiên Khốc, Thiên Hư, khởi ngọ cung,
Ngọ cung khởi Tý, lưỡng phân tung;
Khốc nghịch tị hành hư thuận vị,
Sinh niên tầm đáo tiện cư trung.
Khởi lệ: phàm mệnh đều lấy 12 Chi năm sinh làm chủ. Giả như người sinh năm Thìn, thì từ Ngọ cung khởi năm Tý, nghịch hành qua Tị cung, cho đến Dần cung là đếm tới Thìn, liền an Thiên Khốc. Lại từ Ngọ cung khởi năm Tý, thuận hành qua Mùi cung cho đến Tuất là đếm tới Thìn, liền an Thiên Hư. Ngoài ra phỏng theo như thế. Như người sinh năm Tý thì Khốc Hư nhị tinh đều liền an tại cung Ngọ.
– An Đại Hao sát
Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Thử kỵ dương đầu thượng,
Ngưu sân mã bất canh.
Hổ hiềm kê uế đoản,
Thỏ oán hầu bất thanh.
Long tăng trư diện hắc,
Xà kinh khuyển ngọa khuẩn.
Hữu nhân phạm thử sát,
Tài thực tán linh đình.
=
Chuột ghét Dê trên đầu
Trâu giận Ngựa chẳng cày
Hổ ngại Gà mỏ ngắn
Mèo oán Khỉ không kêu
Rồng hận Lợn mặt xám
Rắn sợ Chó nằm thiu
Có người phạm Sát ấy
Của cải tiêu tán luôn.
QNB chú: sao Đại Hao này được an với Địa Chi tuổi, khác với Đại Hao theo vòng Lộc Tồn/Bác Sĩ, cũng khác với Đại Hao an theo Địa Chi trong môn Thất Chính Tứ Dư.
– An Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách, Quan Phù
Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Thái tuế nhất niên nhất thế hoán,
Tuế tiền thủ tiên thị Hối Khí.
Tang Môn, Quán Sách cập Quan Phù,
Tiểu Hao, Đại Hao, Long Đức Kế.
Bạch Hổ, Thiên Đức liên Điếu Khách,
Bệnh Phù cư hậu tu đương ký.
Phần lời răn và quan niệm về đẩu số
* Phương pháp và nguyên tắc của việc định cung vị trọng điểm (lấy việc đầu tư làm thí dụ):
a, Muốn dùng việc đầu tư ròng để kiếm tiền, cung vị trọng điểm tất định tại cung Phúc Đức.
b, Xem xét thật kỹ mức độ cát hung của tam đại phúc đức cung, so sánh tính toán tương quan nặng nhẹ của chúng.
c, Tam đại Kị giao hội mạnh hơn so với lưỡng đại Kị, lưỡng đại Kị mạnh hơn so với nhất đại Kị.
Lộ trình tương tự, xem cho kỹ tác dụng mạnh yếu của Lộc tinh, cũng với so sánh như thế.
d, Bất luận là cát hay hung, miễn là tạo thành được “Cách cục”, đều lấy tác dụng của “cách cục” mà so sánh sự mạnh mẽ. Bởi vì mức độ của cát hung, đầu tiên lấy cái việc thành cách của “cách cục” ra để mà luận. Khi không thành “các cục”, sẽ tùy thuộc vào Lộc cát Kị hung để so sánh tính toán mức độ mạnh mẽ của chúng.
e, Mức độ của cát với hung, còn cần phải chú ý tới cung vị trọng điểm cùng các tình huống miếu vượng hãm nhược của các Tinh diệu ở tam phương. Tinh diệu ở vượng cung thì Lộc cát rất tốt đẹp, còn hãm địa thì Lộc cát cũng chỉ là hư phát. Ở vượng cung thì Kị hung là yếu tố xung kích, chỗ hãm địa thì Kị hung cực kỳ hiểm ác.
* Vận hạn của một người nào đó khi tiến nhập niên phần sáng sủa lại có đới hung sát thì <sự sáng sủa là do chỉ trông cậy vào mỗi cường vượng của chủ tinh mà nói> sẽ thường gặp phải những phán đoán sai lầm lớn.
* Đẩu số luận mệnh, khi gặp cát hung hỗn tạp, sẽ không vì cái hung mà làm tổn hại đến cái cát, cũng sẽ không vì cái cát mà làm giảm cái hung của nó. Bởi vậy mà mệnh bàn xuất hiện cát hung tương bạn thì nhất định phải “Cát hung phân đoạn” (Phân chia rõ cát hung mà phán đoán).
* Bản đại hạn mà hung ác, nhưng đại hạn sau lại tốt đẹp, sẽ khiến cho cuối đại hạn này có xu hướng chuyển sang tốt dần lên, lại tham chiếu tình huống của 3 năm lưu niên cuối cùng của bản đại hạn sẽ càng nghiệm.
* Luận đoán lưu niên của Đẩu số, nhất định phải căn cứ trên cát hung sở thuộc của đại hạn, coi như là căn cứ quyết định. Vừa lưu niên Tứ Hóa tinh, lại vừa lưu niên Kình Đà Lộc Tồn, thông thường đối với đại hạn sản sinh ra tác dụng dẫn động, mà tác dụng ấy thường thường hướng vào các tinh diệu của cung vị lưu niên (bao hàm tam hợp phương) làm ảnh hưởng càng thêm trọng yếu. Ngoài ra cần xem và xâu chuỗi mối quan hệ nhân quả của các năm liên tiếp gần hạn lưu niên đó để mà suy đoán cho kỹ tính chất liên quan trước sau. Dựa vào phân tích ở tại thời gian một năm nào đó trước đấy là “nhân” và ở tại thời gian một năm sau đó có khả năng phát sinh “quả”.
Tiền nhân hậu quả của tính liên tục loại này, cùng với phép luận của lưu niên dẫn động đại hạn, có thể lấy mà phân tích mệnh bàn đẩu số, từ trạng thái tĩnh dẫn đến trạng thái động, từ đó có thể tìm hiểu sự tình diễn biến tiền nhân hậu quả.
* 30 năm đầu thì chú trọng vào tiên thiên Mệnh cung, 30 năm sau chú trọng vào Thân cung (ước chừng từ giữa đến nửa cuối đại hạn thứ 3 là bắt đầu tính).
* Ở trong đẩu số truyền thống, luận đoán nam mệnh, ngoại trừ các cách cục ở Mệnh Thân cung, thì còn phải lấy 2 cung Tài Quan làm trọng điểm. Nhưng với nữ mệnh, ngoại trừ Mệnh Thân cung thì lấy 2 cung Phu Tử làm trọng điểm.
* Nếu như muốn đi sâu vào nghiên cứu phán quyết đối với mệnh bàn, nhất thiết đầu tiên là bắt buộc phải thông thuộc và thấu triệt tính chất của tinh diệu, cùng với tác dụng “cách cục” của tổ hợp các tinh diệu đặc thù tạo thành. Nếu chỉ dùng sự dẫn động cát hung của Tứ Hóa, hiện tượng cát hung của sự suy luận thường giới hạn ở biểu hiện bên ngoài mà thôi, chứ đối với bản chất của nó thì rất khó mà thâm nhập lý giải.
* Người bình thường chỉ khán đại hạn mà không để ý đến khuyết tật thói xấu của tiên thiên Mệnh cung với các cung vị tiên thiên khác của nó, rồi cho rằng một ngày nào đó hành nhập đại hạn thì có thể bỏ mặc bàng quan với tương quan cung vị của tiên thiên, thì đó là quan điểm trái với thực tế khách quan.
* Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc to lớn trải rộng, trong việc bài bố mệnh bàn của những người sinh ra ở các địa khu không thuộc Trung Nguyên thì phương pháp là: Đem thời gian tại địa phương nơi sinh ra, từ dương lịch hoán đổi thành âm lịch. Thời Thần của lúc sinh là hoán chuyển theo “giờ địa phương” (tức là Địa Chi giờ sinh lấy theo giờ địa phương nơi sinh).
Thêm một phương pháp: Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, tra cứu xem độ số của địa phương nơi sinh ra là bao nhiêu độ kinh, sau đó lấy thời gian Bắc Kinh hoán chuyển thành thời gian địa phương nơi sinh. Như Quảng Châu là 113 độ kinh đông, thì giảm trừ đi 8 độ, mỗi độ là 4 phút đồng hồ, cho nên phải chậm đi 28 phút đồng hồ.
* Ở trong lý luận ứng dụng của Tứ Hóa tinh, cần phải chú ý đến: kết quả “liên Kị” mạnh hơn so với với “liên Lộc”; hay là “liên Lộc” mạnh hơn so với “liên Kị”. Trong lý luận, đại hạn hiện tại cùng với song Kị của tiên thiên giao hội thì cung vị của song Kị giao hội sẽ có tác dụng rõ ràng mạnh mẽ. Cái đạo lý này, đồng dạng có thể ứng dụng đối với việc luận tam hóa “Khoa Quyền Lộc”. Đặc biệt là hai sao Kị đó đối với cung vị nào đó của tiên thiên mà hình thành tác dụng giao hội thì, chính là hàm nghĩa, Kị tinh của đại hạn này xuất ra, tất nhiên sẽ phải đối với cung vị tiên thiên này tạo thành tác dụng kị hại rất rõ ràng mạnh mẽ. Lấy sự thụ hại tổn thất của cung vị tiên thiên đó để mà làm lúc phân biệt, nhưng cần khảo sát sự cường nhược của tinh diệu ở cung vị đó làm căn cứ luận đoán.
* Vận hạn nhập “cung không” thì, vận mệnh thông thường đều luận là nhược.
* Loại tác dụng tiếp diễn của hành vận <phép tắc dẫn động liên tục>, bất kể là tính lành hay tính ác, đều có thể hiện ra rõ ràng mạnh mẽ về tính xu thế của nó, vì vậy cũng đều lần lượt tham gia các bước phát triển về sau. Tính liên tục ấy tại hai đại hạn thì sẽ có tác dụng hiển lộ tính xu thế ở đại hạn đầu và kết quả cát hung thông thường biểu hiện tại đại hạn thứ hai. Nếu như tính liên tục tại ba đại hạn thì tính xu thế ảnh hưởng sẽ càng lớn, kết quả cát hung biểu hiện tại đại hạn thứ ba và biểu hiện mạnh hơn ở đại hạn thứ hai.
* Câu <Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung> của Đẩu Số, hàm chứa cái sự xung chiếu của Sát tinh và Kị tinh đối với Lộc tinh, nhưng cát hung phía sau của Kị Sát tinh xung phá Lộc tinh thì thường là dựa vào <cung vị sự việc> mà có chỗ khác biệt: Bản hạn cung mà vượng, Kị <hàm Sát> xung hai cung <Tài Quan> thì không xung không… (QNB chú: chữ gì đó bị mất). Nếu bản cung mà nhược yếu thì <Tài Quan> đã bị Lộc Kị xung lại luận đoán là bất lợi. Nhưng Kị <Sát> Lộc xung chiếu các cung lục thân cùng với cung Nô Bộc, Tật Ách thì chủ nhân đều bất lợi.
* Trên mệnh bàn chỉ hội cát mà <lục sát hoàn toàn không hội chiếu>, loại tổ hợp mệnh bàn này, ảnh hưởng trực tiếp tích cực: là một dạng cả đời sự nghiệp bày ra không có trở ngại, cách cục không bị phiền nhiễu bởi các biến hóa; nhưng đối với mặt tiêu cực thì bởi vì không thấy chư sát kị tinh, khiến cho mệnh cách ở trong mệnh lý tiên thiên là không được trang bị <ý thức về sự gian khổ>. Dạng mệnh cách này nếu như ở vào những người với những công việc ổn định, khuôn phép, sáng cắp ô đi tối cắp về thì dần dần cũng tiến tới được thành quả nhất định; nhưng đối với những công việc mang tính khai phá hoặc chiếm lĩnh, sáng tạo, thì không phải khả năng mà mệnh cách này có được.
* Về tiêu chuẩn cách cục <cát hung tương bạn> nếu mà ứng với nó thì sẽ tiên thịnh hậu suy (trước thì tươi tốt thinh vượng nhưng càng về cuối càng suy vi sút kém).
* Đối với Thân cung tại vận hạn hậu thiên, một khi đã bị <dẫn động>, sẽ khiến cho tâm lý của đương số xuất hiện <sự điều chỉnh tác dụng> phù hợp.
* Trong luận đoán cát hung, mọi thứ đều cần lấy <cách cục> làm trọng, cũng chính là do <cách cục> hình thành sau cùng nên nhất định trước tiên phải khán cách cục. (Chú thích: cát cách > hung tượng; hung cách > cát tượng. Cát cách; hung cách cùng tồn tại là cát hung tham bán, sẽ cần phải khán sự dẫn động của Thiên Can vận hạn).
* Đẩu số <Tam Thai> lý luận, ngay trong hung hạn liên tục 3 cung: ba hạn lưu niên <hoặc đại hạn> thì thường hội tại cái cung hạn thứ hai dần biểu lộ hung tượng, trễ nhất thì ở cung hạn thứ ba sẽ hoàn toàn hiển lộ hung tượng.
* Các sao Bắc đẩu: cương (mạnh mẽ); khoái (nhanh chóng); nguyên lai (vốn dĩ sẵn có)
các sao Nam đẩu: nhu (mềm dẻo); mạn (chậm); tân lai (vừa mới xảy đến).
* Cách cục ở Mệnh Thân cung, chính thị đại biểu cho tình hình tính chất đặc biệt về mệnh lý của đương số đó, kết quả chính là thánh hiền, tài năng, ngu đần hay là bất tài.
* Lục sát, tuy rằng liệt vào nhóm hung tinh sát diệu, nhưng sáu sao này ngoài tính chất dẫn hung thành ác, hoặc là có thể chuyển hung thành cát, thường thường dựa vào các tinh diệu cấp Giáp, có thể không dựa vào sự cường vượng mà được <chế sát vi dụng> để mà luận định.
* Thân cung đối với vận thế sau thời kỳ trung niên, có ảnh hưởng điều chỉnh tương đối lớn. Một người nào đó suốt cuộc đời cho đến trước lúc già cuối đời, càng từng trải càng tốt hay càng hỗn tạp bó buộc càng hỏng, sự cường vượng hay yếu nhược và cát hung của Thân cung chính vốn có tác dụng điều chỉnh mạnh mẽ tương xứng.
* Căn cứ vào Mệnh cung làm lý luận đầu mối then chốt tổng quát cho mệnh bàn, sau khi một người nào đó đi vào vận trình đại hạn, cần phải suy luận ở bản cung vận hạn, cũng cần lấy cách cục của mệnh cung tiên thiên làm cơ sở, tiếp đó hãy đánh giá xem đại hạn đó tinh diệu có khả năng phát sinh ảnh hưởng hay không. Giả dụ như người “Sát Phá Lang” mà hạn vận hậu thiên lại đi đến cung cũng gặp cách cục loại ấy thì anh ta đương nhiên sẽ có những khuynh hướng lớn của sự thay đổi hoàn cảnh. Giả dụ như người “Cơ Nguyệt Đồng Lương” mà khi nhập hạn vận “Sát Phá Lang” thì anh ta trong loại hạn kiểu này sẽ có khuynh hướng chủ biến động ở trong vận trình, dù cho có cả sự thay đổi hoàn cảnh, nhưng biến động của anh ta sẽ gặp phải là rất ít. Cùng là loại hạn vận tại cung vị “Sát Phá Lang” nhưng mà do sự không giống nhau của đương số nên không thể có cùng một loại nhận định, chỉ cần hạn nhập cung vị loại nào, đều chủ có sự biến động hoàn cảnh lớn nhỏ tương ứng.
* “Phép tắc liên tục dẫn động” chẳng qua chỉ là một loại phương pháp suy đoán đối với một sự việc nào đó. Lợi dụng phương pháp này, có thể giúp lý giải quá trình và những động thái biến hóa của sự việc. Nhưng bản chất cát hung của sự việc lại không đơn giản chỉ là áp dụng phương pháp này mà có thể phân biệt rõ ràng được.
Mệnh Thân và ảnh hưởng của Thái Tuế
Có thể ứng dụng quan niệm [Biểu, Lý] trong lý luận của Đông Y để mà giải thích về Mệnh lý đẩu số đối với Mệnh Thân và tác dụng của Thái Tuế (QNB chú: theo Đông Y thì cặp [Biểu, Lý] gắn liền với lý luận cặp Âm Dương, Biểu là biểu lộ bày tỏ biểu hiện ra bên ngoài, Lý là nội tại ở bên trong). Cách cục của Mệnh Thân hình thành bộ khung và phong cách biểu hiện của một cá nhân, cho nên nó thuộc về [Biểu], còn cung vị Thái Tuế ví như sự ảnh hưởng mạnh tới mức độ nào đó, thường thường là động lực căn bản của các mưu đồ hành vi tư tưởng, mà cái động lực căn bản đó chính là thông qua biểu hiện tác phong hành sự của Mệnh Thân cung mà biểu lộ ra bên ngoài. Cho nên, ảnh hưởng của cung vị Thái Tuế thuộc về [Lý].
Trong kinh tế học có câu danh ngôn nói [sự vận động của kinh tế, chính là bị thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó], thực ra thì đối với mệnh lý mà nói, sự hưng suy khởi phục của cả cuộc đời một cá nhân, cũng là một phần thuộc về ở tự bản thân mình điều tiết, nhưng vừa tự điều tiết vừa có sự thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó.
Tương tự thì loại [cung vị Thái Tuế] thuộc về cung vị có tính ẩn tàng của [Lý], cách cục tinh diệu của nó chính là như bàn tay vô hình tự điều tiết kia. Vô hình trung mưu chước thao túng lại thông qua Mệnh Thân cung và vận trình đại hạn mà xuất hiện phong cách hành sự. Đối với biểu hiện hành vi của một đương số thì cách cục cung vị Thái Tuế có ảnh hưởng tác dụng mang tính mấu chốt.
Đây là một hạng mục quan niệm, trên thực tế, cùng loại này thuộc về ảnh hưởng tác dụng của [Lý] lại vốn có ảnh hưởng của tính chất mấu chốt của cung vị có tính chất đặc biệt, [cung vị Thái Tuế] chỉ là một trong số đó, cũng không phải là cung vị duy nhất.
(Trích từ “Đẩu Số đàm Phụ Mẫu tình” của Tử Vân, P036)
Trước khi vận dụng “Thái Tuế nhập quái tượng”, đối với với tính chất tác dụng của Thiên Can năm sinh và Thiên Can vốn có của cung vị, nếu sử dụng quan niệm “Biểu Lý” của Đông Y để mà thuyết minh, thì Thiên Can năm sinh chính là “Biểu”, còn Thiên Can cung vị chính là “Lý”. Tác dụng ảnh hưởng của “Biểu” thường thường biểu hiện qua những xử sự cá nhân của chỗ Thái Tuế của người ấy tọa thủ, còn biểu hiện của “Lý” chính là đem Thái Tuế nhập cung và giữa nó với mệnh tạo (đương số) sản sinh ra một mối quan hệ hỗ động lợi hại ghê gớm ở một mức độ nào đó thì biểu thị cho thấy tình hình.
Lấy mệnh bàn của ông chủ Lâm (nam mệnh, nông lịch năm 1936 tháng 2 ngày 7 giờ Tị) làm ví dụ để thuyết minh. Năm Giáp Thìn (1964) sinh con trai, cùng với phụ thân anh ta sống chung với nhau, thân tình giữa cha con không hề sút kém, chẳng qua là trong sự tham gia công việc nhà máy với phụ thân anh ta sau này thì cách xử sự e rằng hiếm khi thấy nhận được sự đồng thuận của cha anh ta. Rồi năm Bính Ngọ (1966) sinh con gái, vì năm sinh có can Bính khiến cho Liêm Trinh hóa Kị tại Tuất là Mệnh cung của cha cô ta, cung Tuất lại xung hội vào Ngọ và Thìn có chư sát tinh, hơn nữa lại có cả Kình Đà của năm Bính tại Ngọ và Thìn cung. Bởi vậy đối với mối quan hệ thân tình cha và con gái xem ra biểu hiện dường như không thể nào mà tốt đẹp được. Nhưng bởi vì cung Ngọ vốn có Thiên Can khiến cho Liêm Trinh hóa Lộc vào Tuất là Mệnh cung, và Phá Quân hóa Quyền tại Thân là Thân cung, còn Vũ Khúc hóa Khoa ở Dần cung là cung Quan Lộc. Bởi vậy mà cô ta đi làm ở nhà máy của cha mình, biểu hiện công tác của cô thường nhận được sự ưng thuận đồng tình trọn vẹn.
(Trích từ “Đẩu số luận tử nữ” của Tử Vân, P256).
Thái Tuế của người khác nhập cung, nếu như các tinh diệu cấp Giáp ở chỗ sở tọa của Thái Tuế cùng với tinh diệu của cung Mệnh của đương số tạo thành hiện tượng sinh khắc khác biệt, tương sinh thì hợp, tương khắc thì không hợp.
(Trích từ “Đẩu số luận tử nữ” của Tử Vân, P256).
Quan niệm
Luận đoán mỗi một hiện tượng mệnh lý của các hạng mục cung vị, nhất định cần phải kết hợp tham khảo với Mệnh cung (hoặc bản cung Đại hạn) mà luận đoán. Cung Nô Bộc tiên thiên mà tốt, cung Nô Bộc đại hạn hội sát kị hung tinh, nhưng cung Mệnh tiên thiên ở trong vận trình này mà nhận được cát hóa khiến cho cách cục của cung Mệnh tăng cát, đồng thời bản cung đại hạn lại hội cát diệu, tự nhiên sẽ khiến cho tính hung của cung Nô Bộc đại hạn giảm hẳn đi.
Vẫn theo mệnh lý mà nói, vận trình lúc về già cao tuổi, trong trường hợp đi vào đại hạn có cách hung, nếu bất cập thì nên rút lui, còn xuất đầu lộ diện thì e rằng chẳng có gì tốt đẹp đâu.
Với mệnh lý mà nói, có thể trong hoàn cảnh thời thế tạo anh hùng với người bộc lộ tài năng, tự nhiên phải vốn có sẵn một chút điều kiện mệnh lý chính xác tương xứng. Một người thành công, dĩ nhiên có điều kiện mệnh lý của họ, nhưng cũng nhất định cùng với hoàn cảnh thời đại của xứ sở của anh ta có liên quan, chứ cũng chẳng phải là hoàn toàn do nhân tố mệnh lý tạo thành.
Tổ hợp tinh diệu của Mệnh Thân cung tạo thành cát cách, ở Thiên Di cung lại có nhóm cát tinh tụ tập, dạng đương số kiểu này cả một đời vận trình gặp được không chỉ là sự thuận lợi chẳng có sự ngăn trở, mà còn dễ dàng nhận được sự dìu dắt đề bạt của quý nhân. Nói cách khác, dẫu không được quý nhân đề bạt, chủ yếu là dựa vào sự phân định nghiên cứu những dấu hiệu mệnh lý biểu hiện ở Mệnh Thân cung và Thiên Di cung. Ngược lại, nếu như người mà tổ hợp ở Mệnh Thân với Thiên Di cung mà kém đẹp, trong đời khó mà gặp được quý nhân đề bạt, mà dẫu cho có may mắn gặp được quý nhân khen ngợi đề bạt thì cũng e rằng là chẳng dễ có được cách cư xử tốt đẹp.
Phần cung Phu Thê với tình cảm hôn nhân <<Tử Vân luận hôn nhân>>
Lời nói đầu
Cận đại có rất nhiều người tìm hiểu mệnh lý đẩu số, thường đem những bài ca phú của các bậc tiên hiền, mà họ thuộc như cháo chảy, mỗi khi gặp lúc suy đoán hoạt bàn mệnh lý là thường dẫn dụng các câu văn lời phú để mà làm căn cứ luận đoán.
Thí dụ như, đàm luận về phương diện Phu Thê cung, thì khả năng gặp sự viện dẫn:
“Thái Vi phú”:
Thái Âm đồng Văn Xương vu Thê cung, thiềm cung chiết quế.
(Thái Âm cùng với Văn Xương ở cung Phu Thê thì như bẻ cành nguyệt quế cung trăng, ám chỉ việc lấy vợ đẹp lại là con nhà danh giá, được nhờ vợ mà công danh thăng tiến).
Hay là như:
Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung, hàn lâm thanh dị.
(Thái Âm hội hợp với Văn Khúc ở cung Thê thì như giới hàn lâm thanh cao khác thường, cũng ám chỉ tương tự như trên).
Dường như người mà cung Phu Thê có cách cục loại này, chẳng những trong đời sẽ lấy được vợ xinh đẹp như các mỹ nhân tiểu thư, mà sau khi cưới được người vợ vượng phu ích tử, khiến cho con đường quan lộ được đắc ý, từng bước thăng tiến cao, việc buôn bán cũng như sự nghiệp đều như chim hồng chim hộc bay cao, của cải sinh sôi dồi dào.
Lại như “Ngọc Thiềm phát vi luận”:
Thiên Diêu Phu Thê cung tắc tà dâm nhi đam tửu;
Sát lâm Phu Thê cung, định Phu Thê bất hòa.
(Thiên Diêu đóng ở cung Phu Thê thì tà dâm và mê hoa luyến tửu; Sát tinh lâm vào cung Phu Thê thì xác định là vợ chồng bất hòa).
“Nữ Mệnh Cốt Tủy phú”:
Tam phương tứ chính hiềm phùng sát,
Cánh tại Phu cung họa hoạn thâm
Nhược trị bản cung vô chính diệu,
Tất chủ sinh ly khắc hại chân.
(Tam phương tứ chính mà gặp sát tinh
Gặp thêm ở tại cung Phu là tai họa càng nặng
Nếu gặp bản cung mà vô chính diệu
Thì nhất định chủ sinh ly khắc hại).
Nếu căn cứ vào những thuyết pháp này, người nam mà có cách hung ở cung Phu Thê thì không những là kẻ phóng đãng tham luyến tửu sắc, mà hôn nhân cũng chắc chắn còn bị xáo trộn kiểu chó nhảy gà bay. Nữ mệnh thì không những trong quãng thời gian trung niên chủ bị hôn nhân có sự sinh ly tử biệt, mà còn cả một đời cũng phải trải qua những chuỗi ngày khó nhọc.
Bởi vì quan niệm mệnh lý truyền thống cho rằng, một cá nhân mà cung Phu Thê có dạng như thế nào thì nhất định là trong cuộc sống hôn nhân sẽ xuất hiện những trạng thái tình huống đúng với dạng đó. Nếu cung Phu Thê cát, tất nhiên cả đời hôn nhân sẽ mỹ mãn, tình thâm nghĩa nặng, sát cánh kề vai. Còn như cung Phu Thê hung, nếu không nửa đường đứt gánh vì phải chịu tang người phối ngẫu, thì cũng là chia lìa đôi ngả, đường ai nấy đi.
Nếu căn cứ quan niệm mệnh lý dạng này của Tử Vi truyền thống để mà luận đoán tình hình hôn nhân của một cá nhân thì hoàn toàn phụ thuộc vào cung Phu Thê. Như thế thì chỉ cần người nào đó có cùng mệnh bàn lá số (cùng năm cùng tháng cùng ngày giờ sinh, hoặc là người có tổ hợp mệnh bàn tương tự gần giống) sẽ gặp những tình huống phát sinh như sau:
Thứ nhất, lý ứng vào cùng năm (tuổi) kết hôn hoặc ly hôn.
Thứ nhì, lý ứng về tình hình hôn nhân tương đồng, hoặc đều có nhân duyên mỹ mãn, hoặc cùng là các đôi vợ chồng bất hòa.
Thứ ba, đều có sự tương đồng về sinh ly hay tử biệt, cũng đều có số lần tái hôn và kết quả tái hôn tương đồng với nhau.
Nhưng căn cứ vào kinh ngiệm tích lũy mà bút giả biết, ảnh hưởng của cung Phu Thê dĩ nhiên là cung vị trọng yếu của luận đoán cát hung về hôn nhân. Nhưng nên biết là nó không phải cung vị trọng điểm duy nhất của đời sống hôn nhân trên thực tế.
Bút giả cho rằng, cung Phu Thê ấy, lý ứng tiêu biểu cho một người đương số ấy. Trong một dạng “hình thái ý thức” của hôn nhân và tình cảm nam nữ, thường thường chi phối đương số ấy về phương diện hôn nhân và tình cảm, theo các tiêu chuẩn và quan niệm của đương số xử lý như thế nào. Cái cung vị này lại như một bàn tay vô hình nào đó âm thầm thao túng, tạo thành động lực gốc của cá nhân ấy xử lý vấn đề tình cảm hôn nhân như thế nào.
Nếu theo quan điểm này để mà tìm hiểu về cung Phu Thê, công năng của nó trong mệnh lý đẩu số chẳng qua là phản ứng của một cá nhân trong phương diện tâm lý hoặc ý nguyện về tình cảm với hôn nhân. Chứ không thể tiêu biểu cho trạng huống đời sống hôn nhân và tình cảm thực tế của một cá nhân.
Bởi vậy, trong truyền thống đối với nhận thức về tác dụng của cung Phu Thê, cũng không thể sử dụng để mô tả giải thích hết được về đời sống hôn nhân với tình cảm trên thực tế được.
Bút giả phát hiện nghiệm lý được qua vô số kinh nghiệm luận mệnh, có nhiều lá số với cung Phu Thê gần như là tương đồng về cát hung vậy mà xuất hiện kết quả về hôn nhân với tình cảm hoàn toàn không tương đồng. Một cung Phu Thê khán thấy dường như “đại cát”, lý ra ứng với hôn nhân mỹ mãn, bạch đầu giai lão, nhưng mà kết quả cuối cùng thì lại là sinh ly với tử biệt. Ngược lại, cung Phu Thê có Kị sát giao xung khắp nơi đầy hung tượng, nhưng hôn nhân cả đời lại êm ả chẳng có sóng gió gì cả, thành tựu nhân duyên tốt đẹp. Cát hung của cung Phu Thê ấy, cùng với hôn nhân thực tế hình thành ví dụ thực tế trái ngược lại về mệnh lý. Phàm những người vốn có kinh nghiệm về mệnh lý, chắc cũng đều đã gặp những trường hợp như thế.
Nhưng đáng tiếc là đối với vấn đề mâu thuẫn này, trong các các tác phẩm cổ thư hình như chưa thấy đề cập, trong các tác phẩm mệnh lý đẩu số gần đây càng không thấy đàm luận. Thật không rõ là do các cao nhân tiền bối từ xưa tới giờ rốt cuộc là vì giữ kín không nói ra, hay là vì chưa từng suy nghĩ đến cái đó, hay là không có cách nào khai giải câu đố ấy mà không đi sâu hơn nữa?
Bởi vì, về cung Phu Thê, vừa không thể dùng trọn vẹn nhưng vừa phải dùng trên thực tế để khảo sát vấn đề của trạng huống đời sống hôn nhân chân thực, do đó mà trở thành thiên cổ huyền án.
Chỗ học về mệnh lý đẩu số truyền thống, dĩ nhiên có cái tinh túy của nó để khai thác lập luận, trong luận đoán mệnh lý cũng có sự mở rộng các chỗ độc đáo ở khắp nơi đều rất chuẩn tắc. Nhưng mà trong phương diện kỹ xảo suy diễn và lý luận cũng có nhiều sơ xuất thiếu xót, cứ như là cái kiểu hết giấy khó viết rõ ra được. Cái môn Đẩu Số bao nhiêu năm nay toàn là dậm chân tại chỗ mà đình trệ chẳng có bước tiến, nghiên cứu nguyên nhân của nó, thực chính là do bản thân chúng ta, không thể không khiến cho trong lòng than thở không nguôi!
Tại đây, bút giả đề xuất phương pháp ứng dụng và lý luận của “Thái Tuế nhập cung” hay là “Thái Tuế nhập quái” cùng với “Nguyên lý tương khế” (tương ứng tương hợp qua lại lẫn nhau). Khả dĩ sử dụng để giải quyết thiên cổ huyền án, nhưng một sự phát hiện với lý luận mới sơ khai thì khó mà tránh được những chỗ khiếm khuyết, do đó rất mong các tiền bối cao nhân đồng nghiệp có thể chỉ giáo, thì hậu học thật là may mắn! Môn học đẩu số cũng thật là may mắn!
Phu Thê cung và hôn nhân tình cảm
Mấy năm gần đây, tốc độ viết sách và ra sách liên tục vào mỗi năm một quyển, dù không dám nói ngoa là các công trình chắc chắn tinh tế sống động, nhưng độc giả cần hiểu cho là, trong khi đã đặt bút viết thì bút giả có thái độ rất cẩn thận tỉ mỉ.
Mỗi khi một bản sơ thảo của một quyển nào đó được hoàn thành, điều quan trọng đầu tiên là mang nhờ một hai vị chuyên gia cùng giới (đẩu số) trợ giúp duyệt bản thảo. Tra soát xem những ý chính luận đàm trong cách hành văn có gì khó hiểu, để tránh phạm vào cảnh vừa đá bóng vừa thổi còi (tự thuyết tự đạo, tức là cảnh vừa tự hát lại vừa tự khen) mà có thể gây khuyết điểm khiến độc giả không biết là đang nói những gì.
Khi bản sơ thảo của quyển “Đẩu Số luận nhân duyên” này hoàn thành, tôi cũng mời hai vị chuyên gia trong giới đẩu số là các tiên sinh Chu, Triệu trợ giúp duyệt bản thảo, nhằm mong nhận được những ý kiến khách quan. Nhân đây cũng đặc biệt xin gửi lời cảm tạ tới hai vị ấy.
Sau khi xem trọn vẹn tất cả bài viết, các ông ấy chẳng hẹn mà cùng bày tỏ rằng: Đây vừa là một quyển có lập luận so với truyền thống là mang luận điểm rất lạ mà cũng rất kỳ thú. Độc giả phổ thông, nếu như trước khi vào đọc tác phẩm mà không có một chút khái niệm nào, thì khi đọc sẽ có thể bị phương pháp suy diễn và lập luận của sự độc đáo này khiến cho xây xẩm mặt m*y, lăn quay ra đất.
Ngay sau đó, các ông ấy đưa ra một số vấn đề, yêu cầu tôi phải thuyết minh trước.
Vượt qua 12 cung vị (siêu việt thập nhị cung vị)
Triệu tiên sinh nói: “Trong cuốn <<Đẩu số luận cầu tài>> anh đã công khai xác nhận giải thích đầy đủ thông qua cái lý cung vị trọng điểm của việc đắc tài lộc không chỉ ở Tài Bạch cung mà còn ở Phúc Đức cung. Chuyện như thế khác với luận điểm truyền thống, sau đó khiến cho rất nhiều đồng đạo của giới đẩu số rất kinh ngạc. Rồi lần luận đàm này về tình cảm và hôn nhân, lại không lấy dùng <<cung Phu Thê>> như truyền thống, e rằng sắp tới sẽ tạo thành sự chấn động lớn hơn nữa. Nếu như mà không có những lời nhắn nhủ trước khi vào đàm luận các ví dụ mệnh lý thì e rằng khiến cho các độc giả theo luận điểm của quan niệm truyền thống sẽ đối với loại này sẽ cảm thấy mê hoặc, không thông suốt được!”
Chu tiên sinh cũng bổ sung nói: “Nghe qua anh giải thích mở ra về tác dụng và bản nghĩa của 12 cung vị hạng mục sự tình, cũng đã biết được rằng, với suy luận của anh về các cung vị hạng mục sự tình đó đã sớm thoát ly được ra khỏi cái vai trò khuôn mẫu vốn có 12 cung vị. Nhưng mà những điểm trọng yếu về suy luận và quan niệm dạng này, làm cho các đồng đạo mới ban đầu đọc đến cái tác phẩm này, e rằng không những là sự chấn động mà còn khiến cho cho đẩu số mệnh lý sinh ra sự hoài nghi triệt để, thậm chí vì nó mà có thể gây ra sự mất lòng tin!”.
Đối với tôi (QNB chú: chữ “Tôi” ở đây tức là ông Tử Vân), mặc dù trong phương pháp suy luận và lý niệm về đẩu số có rất nhiều phương diện khác với truyền thống. Nhưng coi như là một người nghiên cứu nghiệp dư yêu thích đẩu số, trộm nghĩ truy cầu diện mạo thực sự của mệnh lý đẩu số chứ cũng bất kể là so với lý niệm và phương pháp suy luận có cái gì sai biệt lớn. Bởi vì văn minh của nhân loại vốn ngay trong quá trình tiếp diễn đều không ngừng mong muốn có những bước tiến bộ. Nếu như mà quá sùng cổ phi kim (yêu cái cổ xưa mà không lý gì đến cái hiện đại) thì là một trở ngại của sự tiến bộ, còn nếu mà quá phi cổ sùng kim (bỏ cái cổ mà sùng bái cái hiện đại) thì cũng khiến cho văn minh tạo thành sự đứt đoạn từng khúc.
Bởi vậy mà, với tôi mặc dù trong phương pháp suy luận mệnh lý đẩu số, có chút khác biệt với phương pháp truyền thống, nhưng trên cơ bản thì chút lý niệm mới của tôi vẫn là có nguồn gốc từ quan niệm đẩu số của truyền thống. Chẳng qua chỉ là đem cái quan niệm truyền thống này mà một lần nữa làm sự đột phá vào cái khuôn mẫu sẵn cũ đó để giải thích và vận dụng, khiến cho nó có thể thêm phù hợp để mà tìm hiểu cái đạo, cái lý của mệnh lý trong sự phức tạp đan xen lẫn lộn của đời người.
Ảnh hưởng tác dụng và bản ý của cung Phu Thê
Triệu tiên sinh: “Trong truyền thống, nắm cát hung của cung Phu Thê thì coi như nắm được căn cứ luận đoán về hôn nhân suốt đời của đương số. Anh hình như là không thực hiện theo khán pháp loại ấy?”.
Quan niệm loại này, nói một cách nghiêm túc thì cũng chẳng có cái gì là sai khác lớn. Bất quá thì nếu như đem cung vị ấy khán được đương số ấy, nó khác với một dạng “hình thái ý thức” trong tình cảm và hôn nhân, có lẽ càng thêm bổ khuyết.
Chu tiên sinh: “Nếu được thì anh có thể nó cụ thể hơn chút nữa chăng?”
Thí dụ như nói, người mà cung Phu Thê có tổ hợp “Sát Phá Lang”, vì ảnh hưởng tính chất được phú cho thuộc loại cương cường rõ rệt và ảnh hưởng về tính động của nó cũng rõ rệt. Do đó mà đương số dạng này, anh ta trong sự lựa chọn đối tượng tình cảm cho mình, thường hội khuy hướng ở sự lựa chọn những người mà có cá tính tương đối mạnh và có tính linh hoạt rõ rệt. Còn nếu như là cung Phu Thê lại thuộc loại “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, anh ta sẽ có khuynh hướng lựa chọn người có cá tính hòa nhã thuộc dạng ôn hòa rõ rệt.
Hành động và biểu hiện của một cá nhân, ngoại trừ chịu sự tác động ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài, thì chủ yếu nhất vẫn chính là chịu sự dẫn dắt của quan niệm và tư tưởng của người đó. Chuyện như thế thuộc về quan niệm và tư tưởng của cá nhân cũng chính là “hình thái ý thức” của anh ta. Đem vận dụng lý luận như thế vào cung Phu Thê, đối với ảnh hưởng tác dụng của cung vị này trên mệnh bàn vốn có thì có thể thu được thêm sự ứng dụng và giải thích hợp lý và trọn vẹn hơn nữa.
Chân tướng cát hung theo phản ánh của cung Phu Thê
Chu tiên sinh: “Có một số cung Phu Thê dường như cát, nhưng hôn nhân cũng không phải là rất tốt đẹp. Có một số cung Phu Thê dường như hung, nhưng hôn nhân cả đời lại chẳng có trở ngại. Rốt cuộc thì là do cái gì?”
Một cá nhân khi mà chưa kết hôn, thì không khỏi luôn mong chờ một cuộc hôn nhân mỹ mãn, do đó đều dựa vào cái lý tưởng trong “hình thái ý thức” để mà đi lựa chọn đối tượng. Nhưng “ý thức” của con người, trong cuộc đời thường gặp sự hiệu chỉnh và cải biến tùy rõ rệt theo tuổi tác và hoàn cảnh.
Thí dụ như nói, người ta lúc còn trẻ, gặp chuyện là hăng hái xông lên mạnh mẽ thập phần; đến khi trung niên thì xử sự ổn trọng, biết chỗ tiến thoái; đến lúc lão niên thì phong mang nội liễm (mũi kiếm đã tra vào trong bao, ý nói sống hướng nội hơn khi trẻ) chẳng mảy may chút nào với được mất. Diễn biến của thái độ xử sự dạng này, ngoại trừ do sự tăng trưởng của tuổi tác con người ra, thì thường cũng do sự biến hóa thay đổi của hoàn cảnh, khiến cho tâm thái, hình thái ý thức, của cá nhân đó nảy sinh ra sự biến hóa thay đổi hoặc là điều chỉnh cực lớn. Cho nên con người ta trong phương thức xử sự ở đời mới có những khác biệt quan trọng về giai đoạn tuổi tác.
“Hình thái ý thức” của một cá nhân trong phương diện hôn nhân cũng có những hiện tượng điều chỉnh hoặc là thay đổi theo tuổi tác kiểu đó.
Bởi vậy để mà nói, vì sao chỉ với mỗi mình cung Phu Thê tiên thiên cũng có lúc không thể xem được đối với đương số ấy về nguyên nhân của các trạng huống của hôn nhân thực tế.
Khi đem suy diễn các trạng huống hôn nhân thực tế, ngoại trừ quyết định bằng cách lấy hiên tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên ra, còn phải lưu ý đến những hình thưc biểu hiên cát hung của cung Phu Thê hậu thiên lúc hành hạn như thế nào, khả năng đối với hôn nhân tạo thành ảnh hưởng ra làm sao.
Thí dụ như nói:
Thứ nhất, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng trong đại hạn sau khi kết hôn lại không ngừng khiến cho Kị tinh xung kích từ Quan vị này, khiến cho cát tượng vốn có của cung Phu Thê tiên thiên chuyển thành hung, mà khiến cho hôn nhân phải chịu sự phá hoại.
Thứ hai, cung Phu Thê tiên thiên kém đẹp, nhưng liên tục mấy đại hạn sau khi kết hôn, lại thường xuyên có Hóa Lộc chiếu vào cung vị đó, cái sự hội tụ đó khiến cho sự kém đẹp ở cung Phu Thê tiên thiên lại chuyển từ hung thành cát.
Thứ ba, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn liên tục biểu hiện hung tượng thì sự hòa hợp của vợ chồng mỗi ngày một giảm đi.
Thứ tư, cung Phu Thê tiên thiên không tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn lại liên tục biểu hiện cát tượng, thì sự tương hội của hôn nhân như là chuyển thành cảnh khổ tận cam lai, càng về sau càng ngọt ngào.
Hoàn cảnh có khi cũng hội những ảnh hưởng đến sự hài hòa hay không của hôn nhân. Tục ngữ vốn có câu nói “bần cùng phu thê bách sự ai” (nghèo khó thì vợ chồng trăm sự đều bi thương). Người như thế một khi cung Phu Thê tiên hậu thiên mà kém đẹp, lại vì gia cảnh quẫn bách, thì gặp sự hung ác hóa tăng nặng thêm về quan hệ hôn nhân. Do đó mà luận hôn nhân, có khi hoàn cảnh gia đình cũng là một điều kiện mà không thể bỏ qua được.
Tảo Hôn và Trì Hôn (kết hôn sớm / muộn)
Triệu tiên sinh: “Tảo hôn hoặc trì hôn thật rõ rệt (trên thực tế), từ xưa tới nay trong mệnh lý dường như cũng rất là trọng thị, cái đạo lý này là do đâu? Giới hạn tuổi tác của sự kết hôn sớm muộn là như thế nào?”
Thông thường đều theo hiện tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên để mà phân định có hay không việc có thể kết hôn sớm hoặc là nên kết hôn muộn.
Trạng thái tâm lý của con người có thể tùy vào tuổi tác mà có sự điều chỉnh hoặc biến hóa thay đổi trước rõ rệt. Con người ta gần năm 20 tuổi đều đã có nhu cầu mạnh mẽ trong tâm lý và sinh lý về tình dục đối với người khác giới tính. Nhưng người trẻ tuổi ở cái độ tuổi này, khí huyết đương còn cương mãnh, sinh lý thì thành thục có thừa, mà tâm lý thì chưa đủ ổn định. Ở độ tuổi đó mà kết hôn thường khiến cho hai người vợ chồng trẻ đó thiếu sự tương kính với nhau, trong đời sống sinh hoạt chung thì phối hợp khó mà ăn ý.
Còn nếu kết hôn khi mà tuổi đã nhiều một chút, thì dầu cho hai vợ chồng trong sinh hoạt chung có chút khó khăn về sự ăn ý nhưng vì tuổi đã lớn một chút nên tâm lý đã chín chắn, thì cũng dễ dàng nhân nhượng mà thích ứng qua lại với nhau.
Cung Phu Thê tốt đẹp, vợ chồng cư xử với nhau dễ hòa hợp vui vẻ, tảo hôn sẽ không được như vậy. Nếu cung Phu Thê mà xui xẻo, rất cần phải kết hôn muộn mới hợp.
Tuổi của sự kết hôn sớm với kết hôn muộn, thời xưa và ngày nay có một sự chênh lệch rất lớn. Vào thời đại của lão tổ mẫu (bà cố), thông thường thì người trẻ tuổi ngoại trừ những ông có nguyên nhân đặc thù hoặc là hoàn cảnh hạn chế ra, thì thường thường vào khoảng 20 tuổi là kết hôn. Nhưng mà vào thời nay thì đâu đâu cũng thấy nam nữ đến 25, 26 tuổi mà vẫn chưa kết hôn. Xưa nay thì sự khác biệt về số tuổi kết hôn có nguyên nhân chính là do bối cảnh thời đại không giống nhau, chứ nó chẳng liên quan gì đến nhân tố mệnh lý cả.
Người xưa tảo hôn, người nay trì hôn.
Chu tiên sinh: “người xưa tảo hôn, người nay trì hôn, vì sao tình huống hôn nhân của người nay biến đổi nghiêm trọng hơn so với người xưa?”
Vào thời đại của bà cố ngoại thì hôn nhân của người nhi nữ là thường do mệnh lệnh của cha mẹ, theo lời mai mối mà thành hôn. Con cái được nàng dâu chính là dựa vào việc lo toan liệu làm hỉ sự thì con cái mới có vợ. Do đó hôn nhân đại sự của người nhi nữ, cũng chính là đại sự của gia đình. Cái chuyện hôn nhân như thế đã được quyết định bởi cha mẹ trong nhà, cho nên một khi có chuyện gì mà tình hình hôn biến xảy ra, dĩ nhiên là có sự định đoạt từ bàn tay quyền lực của cha mẹ ở trong nhà.
Nhưng thời đại gần đây, cái việc hôn nhân gần như là đều do người trẻ tuổi tự làm chủ đạo. Đôi thanh niên nam nữ, bất kể là trải qua một cuộc ái tình dài thượt lắm cảnh lâm li lệ rơi ướt áo trường bào hay là yêu nhau sét đánh từ cái nhìn đầu tiên, một khi đôi bên tình cảm đã ưng thuận thì có thể kết thành vợ chồng. Nhưng mà hôn nhân dạng này, cũng thường tồn tại cái sự không ưng thuận giữa đôi bên, và rồi xảy ra cái hiện tượng sống với nhau thì nảy sinh mâu thuẫn khiến cho vợ chồng đường ai nấy đi chia lìa đôi ngả.
Hôn nhân nếu nư thuộc về đại sự của gia đình, xả thân vì nó, thì người trẻ tuổi không được phép muốn làm cái gì thì làm, nên hôn nhân tự nhiên không dễ gì mà phát sinh biến đổi được. Nếu như hôn nhân chỉ dựa vào cảm tính của đương sự chỉ vì bản thân thì tính ổn định của hôn nhân rõ ràng là bạc nhược đó mà.
Cùng mệnh bàn, không cùng hôn nhân
Triệu tiên sinh: “Xưa nay, đối với việc cùng lá số mà không cùng hôn nhân, hình như chưa từng có sự giải thích rõ ràng hợp lý. Anh lần này có phát biểu sáng kiến mang tính đột phá, nhưng mà sự công bố đó của anh dường như vẫn chưa phải là toàn bộ phương pháp suy luận trọn vẹn. Vì sao lại có sự bảo lưu vậy?”
Lý luận “Thái Tuế nhập quái”, có thể dùng để giải thích vì sao người cùng mệnh bàn lá số (cùng năm tháng ngày giờ sinh) và nguyên nhân vì sao hôn nhân của họ không giống nhau. Do đó cũng có thể lợi dụng lồng vào phương pháp và lý luận để mà giải quyết cái huyền án mà thiên cổ lưu lại này.
Tôi chẳng kiêng dè gì mà nói, đối với phương pháp suy luận và ứng dụng của bộ lý luận này, mặc dù cũng đã từng có rất nhiều bài viết đều dẫn dụng nói rõ, nhưng những phần đã công bố có lẽ chính là như hai phần ba chiêu thức của một bộ quyền thuật, chứ không phải là toàn bộ chiêu thức.
Chẳng qua tôi rất tin tưởng rằng, đối với những người có ý chí quyết tâm về đẩu số, phải biết thu nhận được sự khai mở gì sau khi đọc kỹ cuốn này, nếu như mà dụng tâm điều tra nghiên cứu thêm thì có thể từ lý luận này mà thâm nhập sâu rộng thêm vào mệnh lý đẩu số.
Vấn đề ly hôn
Chu tiên sinh: “Trong khi thảo luận kín và giảng giải phân tích bàn bạc về trường mệnh cách ly hôn, anh thường có những suy luận và dự đoán đúng trọng tâm. Nhưng trong cuốn sách này thì dường như có ý tránh mở ra sự thảo luận về phương diện này. Mà việc này cùng với lúc bình thường anh cùng với người ta luận mệnh, cũng cố ý tránh cái chỗ luận về việc thế nào cũng ly hôn. Hình như là có cái khéo của sự dị khúc đồng công (cùng nốt nhạc nhưng trong giai điệu khác nhau, ý nói về sự khéo biến tấu), rốt cuộc thì là do cái gì?”
Trong truyền thống, người Trung Quốc thường quan niệm là khuyến khích hòa hợp chứ chẳng khuyến khích ly tán. Năm đó ân sư của tôi cũng đã đem cái sự việc ly hôn mà liệt vào một trong ba điều đại răn của việc đàm luận mệnh lý. Có thể nghe theo mà chịu sự ảnh hưởng này, do đó mà ngoại trừ những lúc tham khảo bên lề về lý học ra, đối với những sự việc mà có khả năng xảy ra ly hôn, thì tôi luôn luôn chỉ là điểm trúng thì ngừng. Nhắc nhở người ta phải cẩn thận cư xử cho phải đạo trong phương diện hôn nhân, chứ nhìn chung là không đoán chắc là sẽ ly hôn.
Tôi mặc dù cũng đồng ý với cái thuyết của người phương Tây “Một đôi vợ chồng ly hôn, có thể sau đó sẽ tạo ra 2 đôi có nhân duyên mỹ mãn”. Nhưng mà tôi lại cũng cho rằng, con người ta đến lúc trung niên, có sự việc liên quan tới ly hôn, vẫn cần phải biết suy xét lo toan và xử lý thật kỹ càng. Huống chi đối với cuộc tình thứ hai, đã chắc gì nhận được sự mỹ mãn? kết hợp có hạnh phúc? Chẳng có ai có thể dám đứng ra đảm bảo được.
Một cá nhân khi đến tuổi trung niên, một khi phát hiện ra hôn nhân không được mỹ mãn thì dĩ nhiên là bị giảm mất một nửa hạnh phúc đời người rồi, nên sẽ truy tìm quyền lợi ở cuộc tình thứ hai. Nhưng đối với con cái mà nói, thì đúng là cần phải có sự cùng chăm sóc giáo dưỡng của cả cha lẫn mẹ. Nếu như mà cha mẹ ly hôn, thường gieo vào trong tâm hồn của con cái một sự ảnh hưởng xấu mà không gì có thể bù đắp lại được.
Con cái vì cớ gì mà bị ruồng bỏ, vì cái gì buộc chúng phải chịu cái chuyện như thế đến từ sự ly hôn của cha mẹ mà khiến cho cả đời bị ám ảnh vào tâm hồn!
Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, càng không muốn xem nhẹ cái việc luận đoán về ly hôn. Mệnh lý thường gặp cái việc vì một câu nói mà có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc hay bất hạnh của người khác. Do đó làm thế nào để đàm luận về vấn đề ấy, thường thường thì do quan niệm của người luận số bó buộc mà thôi!
Phần luận sự nghiệp
* Tổ chức thương mại mậu dịch quốc tế sinh sôi nảy nở, nếu như vận hạn hoặc cung Thiên Di của bản Mệnh (cung Mệnh gốc) có Lộc tinh cát hóa, thì đúng là vừa vặn ứng với ảnh hưởng tác dụng của [phát tài ư viễn quận], do đó rất có lợi khi buôn bán ở phương xa.
* Trong suy luận về phương diện khởi đầu của một sự nghiệp mới (của đương số), ngoại trừ cung Sự Nghiệp (cung Quan Lộc) có cát tượng của Hóa Lộc dẫn động ra, khi bản cung đại hạn hoặc lưu niên được cường vượng, nếu mà khi có song Hóa Quyền hội vào cung sự nghiệp, thì cũng chủ tại vận hạn hoặc lưu niên đó sẽ khai sáng sự nghiệp mới.
* Cung vị của phía đối tác cộng sự, thông thường sẽ thấy xuất hiện tại cung Thiên Di của đại hạn hoặc lưu niên. Hoặc là ở trên hai phương vị của [Tài], [Quan]. Với sao Hóa mà có lợi cho việc hợp tác, lấy [Lộc] và [Quyền] làm trọng yếu.
* Về cơ bản, tại vận hạn mà đụng tới cung Thiên Di có Kị Sát đối xung thì không nên hợp tác sự nghiệp làm ăn.
* [Dị lộ công danh] – bắt tay vào kinh doanh và sáng lập sự nghiệp với đủ mọi thể loại mà có tính chất không giống nhau. (Hai sao Không Kiếp xuất hiện ở cung Sự Ngiệp).
* Nếu khi làm ăn buôn bán xuất hiện cạnh tranh, thì cung Thiên Di tiên hậu thiên chính là cung vị của đối thủ cạnh tranh. Cung Sự Nghiệp thì chính là cung vị quyết định sự nghiệp làm ăn được thông thuật trôi chảy hay không. Cung Tài Bạch trở thành cung vị then chốt quyết định có kiếm được tiền hay không. (Chú thích: Điền Trạch – chủ có tích trữ được tiền tài hay không; Phúc Đức – chủ có được thụ hưởng tiền tài hay không).
* Cung Thiên Di, chính là một cung vị trọng điểm của việc đàm luận về mối quan hệ nhân tế xã giao, cũng là hành động trong quan hệ nhân tế, đối với người lãnh đạo chóp bu thì chính là một mấu chốt rất trọng yếu.
* Cung Mệnh Thân tiên thiên mà cường vượng, đồng thời cung Sự Nghiệp lại thành cát cách, khi mà các Thiên Can của vận hạn liên tiếp được hóa cát lại vừa dẫn động cung Sự Nghiệp tiên thiên này, trong biểu hiện sự nghiệp của các vận trình ấy thường thường phải căn cứ vào cung sự nghiệp của tiên thiên để mà luận đoán.
* Sự nghiệp mới hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới của một người, rất khó trong khoảng dăm ba năm mà làm được thăng quan tiến chức vùn vụt, của cải thu nhập to lớn. Bởi vậy nhất định phải chú ý đến cát hung của vận hạn trong tương lai, mới có thể coi như là căn cứ trọng yếu để mà xem có hay không cái lợi về sự chuyển biến của tân sự nghiệp hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới.
* Bắt đầu khởi công nhà máy, xưởng sản xuất đều cần đầu tư rất nhiều tiền bạc kinh phí, mà cái dạng tiền bạc đầu tư kiểu này thu hồi vốn cũng rất chậm. Bởi vậy, đối với sự nghiệp đầu tư sản xuất thì ngoại trừ chú trọng xem 2 cung Tài Quan trên mệnh bàn có vượng hay không, còn cần phải đồng thời xem cung Điền Trạch (Tài Khố) có miếu vượng sung túc hay không.
* Về phương diện luận đoán mệnh lý sự nghiệp:
A, Mệnh lý phản ánh về các loại nghề nghiệp khác nhau, chẳng qua là có khuynh hướng theo một loại nào, nhưng quyết chẳng phải nhất định là sẽ tham gia vào ngành nghề đó.
B, Trong khi luận đoán về ngành nghề hành vận biến hóa sự hưng suy khởi phục, thì nhất định phải dựa vào tính chất ngành nghề trong thực tế đương số tham gia, thậm chí phải dựa vào chức vụ đương số đang đảm đương hay tình trạng của chức vụ để mà làm căn cứ nghiên cứu suy luận.
C, Tính chất ngành nghề của đương số tham gia thường hội tụ ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình cũng như do bối cảnh thời đại.
D, Không được bỏ qua tài năng bẩm phú vốn có theo mệnh lý tiên thiên cũng như tình hình tài nghệ sở học hậu thiên của đương số, cái này gọi là sự thích nghi để sinh tồn, là cái lý vượt trội thì thắng mà yếu kém thì bại vậy.
* Đầu tư ròng có thể thu được lợi nhuận hay không, phải xem cung Phúc Đức tiên hậu thiên như thế nào? Cung vị tốt đẹp thì hiển nhiên có thể khiến cho việc đầu tư sẽ kiếm được tiền, nếu mà (các cung ấy) dở thì tiền vốn sẽ một đi không trở lại. Nhưng nếu tham dự kinh doanh, ngoài việc khán hai cung Tài Quan, còn cần phải khán cát hung của cung Thiên Di tiên hậu thiên của (người) hợp tác. Cát thì hợp tác tốt đẹp, hung thì hợp tác chẳng được hài hòa, chẳng chóng thì chày cũng sẽ cãi nhau mà không được thoải mái rồi giải tán, chứ nói gì đến việc kiếm tiền được hay không.
* Kị Lộc xung vào cung Sự Nghiệp, biểu thị một dạng sóng gió của sự nghiệp, vừa có nghĩa cát hung tham bán, khi mà bản cung đại hạn hoặc lưu niên cường thì kết quả chuyển hung thành cát; khi bản cung hãm nhược thì chẳng có cách gì chế ngự được sự mất ổn định của sự nghiệp, sau cùng sẽ chuyển cát thành hung.
* Tử Vi và Thiên Hình, ảnh hưởng tính chất vốn có của nó về dụng cụ khám chữa bệnh, nếu như hội nhập Thân Mệnh hay cung Sự Nghiệp thì sẽ khiến cho có khuynh hướng về nghề nghiệp là tham gia hay có liên quan đến Y Dược.
Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần Điền Trạch>
* Hung tượng của cung Điền Trạch trên mệnh bàn (lá số), chỉ cần không quá <ứng hung> thì không nhất định phát sinh hung tượng <ảnh hưởng làm tổn hại>. Miễn là không quá dấn thân thì đủ để giảm nhiều sự thảm bại trong đầu tư buôn bán làm ăn (tức, yếu mà không cố quá thì đỡ quá cố). Đối với chức nghiệp thì chỉ cần an phận thủ thường, sẽ không gặp phải phản ứng từ hung tượng trong cung Điền Trạch. Trong phương diện buôn bán bất động sản, ngoại trừ nhu cầu cư trú của mình, không nên có đầu tư vào bất động sản hoặc các hoạt động liên quan tới bất động sản để hòng thu lợi nhuận. Nếu không sẽ đem tiền đầu tư vào đất đai vô giá trị, chẳng những tiền vốn vì vậy mà bị ứ đọng, giam hãm, chẳng đem lại lợi gì, mà thậm chí còn khiến cho tiền vốn sẽ một đi không trở lại.
* Thiên Di vượng, Điền Trạch hung <phá>, thường có phát sinh tượng ly hương.
* Kị Sát cùng đến cung Điền Trạch, thông thường người ta gặp cách ấy mà đi mua nhà thì hầu hết đều gian khổ khó khăn, phần lớn số tiền mua nhà đều là do đi vay mượn mà có.
* Buôn bán bất động sản, nếu như lấy kiếm tiền làm mục đích, trong đẩu số mệnh lý và việc mua nhà thuần túy, là có sự phân biệt với mục đích dùng để tự mình ở hoặc dùng để làm bảo đảm giá trị tiền gửi.
Buôn bán bất động sản với mục đích kiếm tiền cần coi kỹ cùng với giao dịch làm ăn, trọng điểm của nó vẫn cùng giống như Sự Nghiệp một dạng, nhất định phải chú trọng đến hai cung <Tài> <Quan> phải đẹp mới hợp.
Nếu như với tư cách tự mình dùng để ở hoặc dùng để đảm bảo giá trị tiền gửi, thì trọng điểm lại ở cung Điền Trạch.
Không được lẫn lộn, không phân biện những điều ấy.
* Cung Điền Trạch có Lộc Kị xung thì thông thường chủ bất động sản được bán ra.
* Cung Điền Trạch có vững như bàn thạch hay không, có được như tường đồng vách sắt hay không, trong mệnh lý đẩu số dùng làm điều kiện trọng yếu của sự phân biện về vận thế có khuynh bại hoàn toàn hay không.
* Điền Trạch hung mà cát hung tương tạp, thường thường biểu thị đúng thực tế về bất động sản có cát hung tham bán. Nếu có sự đầu tư, thì tốt xấu đều có cả. Mà tỉ lệ của tốt/xấu thì lại quyết định ở cát hung của cung điền trạch của đại hạn và bản cung đại hạn, cùng với điều kiện cát hung của cung điền trạch của đại hạn kế tiếp.
* Hung tượng của cung Điền Trạch đại hạn, trong phân tích suy luận việc đầu tư hay mua sắm bất động sản, cũng có nghĩa là về mặt nguồn vốn cũng không được hùng hậu đâu. Do đó, trong phương diện xây dựng mua bán bất động sản thì ngoài ý nghĩa không có đủ vốn, nhất định cần phải dựa vào khoản vay bên ngoài. Nếu như lại hi vọng vào kế mua nhà để đảm bảo giá trị tiền gửi hay là muốn lợi dụng đầu tư vào bất động sản để kiếm lợi nhuận, thì thường thường đều gặp sự trái với nguyện vọng.
Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần cầu tài>
* Nếu hai cung [Tài] [Phúc] của đương số mà phá bại, trong đời sống thực thế là quân nhân, công chức, viên chức, giáo viên – những người không cần sử dụng đến nguồn tiền vốn lớn trong nghề nghiệp riêng của mình. Cũng có thể là thuộc tầng lớp đơn vị phục vụ trong dân gian, với lương bổng không cao, do túng bấn với kinh tế mà khiến cho cuộc sống tương đối nghèo khổ.
* Được hay mất của việc buôn bán cổ phiếu, ngoài khán bản cung vận hạn ra thì còn phải trọng thị hai cung [Tài] [Phúc], phải có cát nhập thì mới tốt đẹp.
* <Lý Tài> của cung Phúc Đức (QNB chú: tức là ám chỉ cái Lý về sự quản về tiền tài của cung Phúc Đức), chính là rốt cuộc về sau có được tiền tài hay không, khảo sát xem (nó) như thế nào để mà vận dụng. Còn tác dụng của cung Tài Bạch lại ở phương diện biểu thị phương pháp hay thủ đoạn được áp dụng để sự cầu tài (tức, đường lối mưu cầu kiếm chác về tiền tài vật chất), cho nên cung Tài Bạch chính là biểu hiện rõ rệt cho phương thức của hành động <cầu tài>.
* Cung Tài Bạch tiên thiên có Kị Sát <Kị hoặc Sát> đồng cung, một khi gặp cung Tài Bạch của vận hạn hậu thiên đi đến chỗ có Kị Sát đồng cung thì trong thu nhập của tiền tài sẽ có chứa khuynh hướng mang <tính chất đánh bạc>.
* Khi đem tiền cho bạn bè mượn hay là đem cho vai lấy lãi, ngoài việc cần phải lưu ý đến cung Phúc Đức có khuyết điểm gì hay không, còn cần phải chú ý đến cung Nô Bộc của vận hạn có hung tượng hay không. Cung Phúc Đức nếu như bị phá, gặp hung sát, thường sẽ khiến cho khoản tiền đã cho vay một đi không trở lại.
* Cung Phúc Đức có thể cho ta thấy được tâm tính căn bản của nhu cầu đối với tiền bạc và khả năng xoay xở xử lý nó như thế nào.
* Ông nào mà tích trữ được tiền hay không, có thể dựa vào công việc nghề nghiệp hay tiền lương được lĩnh khi đi làm. Loại tiền dạng này, nhiều hay ít, khó hay dễ, có thể căn cứ vào cung Tài Bạch để luận đoán.
* Tài Bạch cung là cung vị của chỗ phát sinh ra tiền tài lợi nhuận, còn sau khi thu tiền tài lợi nhuận thì cung vị của phương thức xử lý xoay xở cũng như cách tiêu dùng thì cần xem ở Phúc Đức cung.
* Đại hạn với cung Phúc Đức của tiên thiên mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.
* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,…).
* Cung Phúc Đức của tiên thiên và của đại hạn mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.
* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,…).
* <Lợi nhuận tiền tài> của cung Tài Bạch, dường như có xu hướng từ sự từng trải qua vất vả cực nhọc của chính bản thân mà kiếm được. Nếu như là trải qua việc đầu tư, để người khác giúp mình kiếm tiền thì cung Phúc Đức lại trọng yếu hơn. Bởi vì cung vị này cũng đại biểu cho <phúc phận> của một cá nhân là lớn hay nhỏ, là dày hay mỏng.
* Đầu tư ròng là đã có tiền rồi, cũng là tiền của cung Phúc Đức. Bởi vậy, cung Phúc Đức mà hung thì chẳng có cách gì trông cậy vào việc từ đầu tư ròng mà thu được tiền tài lợi nhuận lớn được. Còn tiền của việc đầu tư tự kinh doanh lại đến từ tiền tài ở 2 cung Tài Quan, trường hợp này lại khó coi ở cung Phúc Đức. Những cái đó có sự khác biệt vậy!
* Luận đoán về mưu cầu tài lợi, ngoài cung Mệnh và cung Tài Bạch ra, một cung vị trong điểm khác chính là ở ngay cung Phúc Đức. Còn cung Tài Bạch thì coi như là cung vị luận đoán về <phương thức cầu tài> (phương thức gồm có: lương bổng, buôn bán, tay nghề khéo, cách kiếm tiền là chính hay bất chính,…). Cũng có thể nói cách khác: Mọi thứ lấy con người ta làm chủ, mà tích tượng mệnh lý của nó là lấy sự lao tâm lao lực để mà cầu đắc tài lợi, sẽ dùng tổ hợp tinh diệu của cung Tài Bạch để tiến hành phân định nghiên cứu. Mà tác dụng ảnh hưởng của cung Phúc Đức trên phương diện mưu cầu tiền tài lại <thuộc về dấu hiệu biểu hiện của một dạng dục vọng mạnh hay yếu đối với tiền tài>. Nếu như cung Phúc Đức mà đã cường với vượng, thì đương số có tâm thái tính nết đối với việc mưu cầu tiền tài vật chất sẽ là cực kỳ mãnh liệt. Do đó, sau khi anh ta có tiền vốn dư dả thì anh ta càng tích cực lợi dụng cái nền tảng tiền vốn này để mà sinh lợi nhuận. Người mà cung Phúc Đức nhược hãm, cho dù có tiền cũng dường nhu không có cái tâm tính mãnh liệt của dạng <dụng tài cầu tài> (dùng tiền để mưu cầu sinh ra thêm tiền).
* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.
* Thông thường, người có Mệnh cách mà tương tối cương cường mà lại hội sát tinh thành cách cục, thì đều vốn có sẵn cái tính mạo hiểm. Loại người này thường liều lĩnh, một khi có cơ hội là hành động đem tiền vốn tập trung đưa vào loại có <tính chất đầu cơ>.
Còn người mà Mệnh cách nhu nhược, lại không có sát tinh, cũng lại không thành cách cục, thì bản tính trời sinh là dường như rất bảo thủ. Do đó khi anh ta muốn lợi dụng <dùng tiền kiếm tiền> thì sẽ lựa chọn phương thức mà không mang tính chất vụt đến vụt đi. Cho nên phương pháp cầu tài của dạng người này là lựa chọn loại có <tính chất đầu tư>.
* Tiền tài của cung Tài Bạch, chủ về phương pháp của việc cầu tài, kiếm tiền khó hay dễ, đạt được nhiều hay ít.
Tiền tài của cung Phúc Đức, chủ về lợi dụng cái tiền tài sẵn có để lấy tiền mà đẻ ra tiền, cũng là một dạng bỏ tiền vốn ra để sinh lợi nhuận <đầu tư ròng>.
Tiền tài của cung Điền Trạch, là chủ về người đầu tư đem tiền vốn của mình có đầu nhập vào trong cái nghề kinh doanh của chính mình.
Nếu như Khố vượng thì tài tụ, biểu thị khả năng kinh tế hùng hậu giàu có của đương số, có thể thực hiện những việc đầu tư về đại ngạch mà mang tính chất lâu dài. Vì tiền vốn không ít cũng chẳng thiếu và không gặp phải lo ngại về khó khăn trong việc xoay vòng vốn, cho nên trong sự nghiệp kinh doanh thì đương số rất hiếm gặp phải khó khăn trong việc điều động tiền vốn.
Nếu như Khố vị mà bị phá mà lại muốn đầu tư sự nghiệp to lớn thì nhất định sẽ đến lúc sự nghiệp kinh doanh có xu hướng gặp phải tình huống khó khăn về xoay vòng vốn mà dẫn đến sụp đổ. Cho nên người mà Khố vị vận hạn hung sẽ không hợp với việc đầu tư kinh doanh quá lớn, càng bất lợi ở những ngành nghề sản xuất mà thu hồi vốn đầu tư quá chậm.
Hung tượng của <Mệnh với Tài cung cấu thành nên> của <Tài dữ tù cừu>, cùng với cung Phúc Đức và cung Điền Trạch bị phá tổn bại tài, là bị tài vụ ứ đọng gây ra nhưng chúng không quá giống nhau. Vấn đề tài vụ của <tài dữ tù cừu> có nguyên nhân từ mối tranh chấp kiểu <không từ thủ đoạn> gây ra. Còn cái việc Phúc Điền bị phá thì dường như thuộc về nguyên nhân do thiếu tài chính mà gây ra khốn cảnh.
Cùng một dạng vấn đề về quản lý tài sản nhưng mà lại có tính chất với nguyên nhân khác nhau rất lớn.
* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.
Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần tạp luận>
* Người mà Mệnh Thân kiến Sát Kị, được gọi là Mệnh lao lực (Lưu Vĩ Vũ).
* Người mà Mệnh Thân mà gặp nhiều sao trong số lục cát tinh, có Khoa Quyền Lộc cát hóa, có thể nói là quý khí ổn trọng rõ ràng (Đàm chú: Nếu mà Mệnh Thân cung có Đế tinh thì càng thêm nghiệm). Ngược lại, nếu người mà Mệnh Thân mà gặp ít sao trong số lục cát, lại tụ các sao thuộc lục sát, lại không có Khoa Quyền Lộc cát hóa, thì dù cho trong nhất thời có được lên vị trí cao phong vân tế hội, cũng không được bền lâu. (Lưu Vĩ Vũ)
* Với các câu phú liên quan đến chết chóc như:
A, Cự Hỏa Dương — chung thân ải tử; (cuối đời tự vẫn)
B, Xương Linh La Vũ — hạn chí đầu hà; (hạn đến thì đâm đầu xuống sông)
C, Xương (Khúc) Tham — phấn thân toái cốt; (tan xương nát thịt)
D, Phá Khúc — khủng lâm thủy dĩ sinh tai; (ngại gặp nước vì sẽ sinh tai họa)
E, Điếu Khách Tang Môn — Lục Châu hữu trụy lâu chi ách (Nàng Lục Châu gặp tai ách phải nhảy lầu).
* Liên quan đến tự sát như:
A, cắt cổ tay, mổ rạch bụng, đâm đầu vào tường, mà thấy máu: Hồng Loan + Dương Nhận;
B, Nằm đường ray, sự cố giao thông: (không thấy ghi gì cả)
C, Uống thuốc/hóa chất: Cự Môn hội Kị Sát;
D, Ngạt khí gas, hơi độc: Kim hỏa tương khắc (Lưu Vĩ Vũ).
* Từ mệnh bàn đẩu số khán về tích tượng (dấu tích và hình tượng) của phương diện sự cố về sức khỏe. Ngoài cung Tật Ách ra, còn cần phải cân nhắc đến cung Mệnh Thân, trong kết cấu của các tinh diệu có các hung ác sát cách hay không. Rất nhiều người từ bé thì đã vì ác tật hoặc sự cố ngoài ý muốn, mà hình thành khuyết tật trở ngại cả đời, về đại thể thì cung Mệnh Thân và cung Tật Ách đều có xuất hiện kết cấu các cách hung sát và ác cách.
* Trên phương diện luận đoán về sức khỏe, cung Tật Ách tiên hậu thiên chỉ là một trong những cung vị trọng điểm, chứ không phải là căn cứ duy nhất về cung vị của vấn đề luận luận đoán sức khỏe. Các cung Mệnh Thân tiên hậu thiên và bản cung đại hạn, cũng thường có thể lấy làm căn cứ của luận đoán về tình trạng sức khỏe.
* Trên cơ bản, tinh diệu của cung lục thân, nếu mà có thể [nhu hòa] rõ rệt hay là [cương nhu tương tế] thì được coi như là lý tưởng.
* Cung Phúc Đức cũng hàm ý [Duyên Phúc] của một cá nhân là là dày hay mỏng.
* Cung Mệnh Thân tiên thiên nếu không hội cát diệu thì ít được trợ lực. Nếu như mà lại hội Kị Sát thì ứng với việc đời lại là:
A, Không chỉ thiếu đi sự trợ giúp, dìu dắt của quý nhân, mà ngay cả những người bằng vai phải lứa cũng như những thuộc hạ cũng chẳng có được nhiều trợ giúp. Loại này rất hay gây sự xích mích với lãnh đạo cũng như với đồng nghiệp.
B, Không hội cát mà chỉ hội sát, chỉ cần mệnh cung mà không cường vượng thì các Kị Sát sẽ phát huy tác dụng ảnh hưởng của kẻ tiểu nhân, loại tiểu nhân này thường sẽ những việc thành công thì chẳng đủ nhưng những việc phá bại thì có dư.
* Liêm Trinh hóa Kị viết [Tù], lại hội Lưu Hổ, lưu niên Quan Phù, thường sẽ khởi quan tụng. (Đàm chú: Cự Môn hóa Kị mà hội với hai sao Lưu đó cũng ứng nghiệm).
* Điêu khắc gia, bác sĩ ngoại khoa, thông thường thì ở Mệnh cách hội các sát diệu Kình Đà.
* Chính tinh phân làm 2 loại:
A, Tử Phủ Liêm Vũ Tướng Sát Phá Lang;
B, Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.
Loại A thì đầu tiên coi trọng Tả Hữu, vì loại A có thể phân làm 2 loại là [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] và [Sát Phá Lang]. Đối với [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] nếu mà không có Tả Hữu thì không thành cách [Quân thần khánh hội] chỉ được luận là cô quân, chẳng có cách nào để mà phát huy trọn vẹn tính chất đặc biệt của Đẩu chủ chủ ti hiệu lệnh. Đối với loại [Sát Phá Lang] mà không thấy Tả Hữu thì không thể thi triển được trọn vẹn tính khai mở sáng tạo của nó, mà thành ra rối loạn không ổn định.
Loại B thì trước tiên coi trọng Xương Khúc. Về phần Khôi Việt thì bất kể tinh diệu như thế nào, bất kể cách cục ra làm sao, đều mừng tương hội hoặc đồng cung với chúng. (Loại B thực sự dễ cấu thành Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân)
* Cung Điền Trạch tiên thiên tốt đẹp, thì phương pháp phân biện cát hung của cung Điền Trạch hậu thiên là: quyết định ở cát hung của bản cung đại hạn như thế nào, nếu như bản cung đại hạn mà cát, thì cát tượng của Khố của Điền Trạch thì chính là trong gian khó có được sự tích lũy; nếu như bản cung đại hạn hung thì Điền khố biểu hiện tượng là có gian khổ nữa thì cũng không cách gì tích lũy được.
* Thảo luận suy xét về vận cần kiểm tra xem Mệnh cung trước tiên. Nếu như có Kị Sát giao xung nghiêm trọng lại không thấy cát diệu, đại khái từ nhỏ đã khó có được thành tựu tốt. Cái đó là đạo lý tự nhiên. Hơn nữa, chiểu theo việc kiểm tra sự biến hóa của đại hạn, nếu như vận hạn quá yếu nhược hoặc là có Kị Sát giao xung nghiêm trọng, cũng không dễ để mà hạ quyết tâm đọc sách. Hiểu rõ những cái này sẽ dựa vào sự dẫn động của lưu niên cùng các loại kiểm soát khác để mà suy luận. (Lưu Vĩ Vũ)