Quan niệm về số mệnh và tử vi
1. Tính cách và số mệnh
Trong cuộc sống đôi khi chúng ta thường hay gặp những câu hỏi như:
“con người có số mệnh hay không?”, “số mệnh từ đâu mà có ” hay “có thể thay đổi được số mệnh hay không?”. Để lý giải một cách rõ ràng những câu hỏi như thế này quả thật không phải là dễ. Bởi vì nếu con người sinh ra đã được định sẵn trong một khuôn hình của tạo hoá thì thật là vô lý. Như vậy sẽ không cần lao động, không cần suy nghĩ, số mệnh đã an bài thì tất mọi việc tự nhiên sẽ đến. Giàu có số, nghèo có số cố gắng cũng chẳng thay đổi được. Phàm mệnh nghèo, dù có để cho người đó được giàu sang thì cũng không được hưởng. Mệnh giàu sang thì dù có bắt nghèo khó lại sẽ gặp giàu sang. Nói như thế là tuyên truyền thiên mệnh không thể thay đổi, là chủ trương giàu nghèo do mệnh định đoạt, người nghèo thì cam chịu mệnh nghèo, còn người giàu cứ ung dung nhàn hạ thụ hưởng sự sung sướng?. Số làm Thủ tướng đợi đến ngày, đến giờ sẽ được phong chức Thủ tướng?. Hiểu như thế là sai lầm.
Sự thật hiển nhiên, nếu không suy nghĩ, không ham muốn, không lao động thì không có thành công. Bằng cách này hay cách khác con người vẫn luôn luôn phải làm việc, suy nghĩ để tồn tại và phát triển chứ không thể đợi số phận đưa đến. Để được làm Thủ tướng phải có tham vọng, phải tham gia hoạt động chính trị, phải cống hiến cho xã hội. Không ai tự nhiên sinh ra đã là kỹ sư, bác sỹ hay Thủ tướng. Chúng ta có thể khẳng định rằng không có số mệnh định sẵn.
Như vậy sẽ có một câu hỏi khác được đặt ra, “nếu con người không có số mệnh, không tuân theo một quy luật nhất định thì tại sao những môn dự đoán học như Tử vi lại có thể dựa trên quy luật âm – dương ngũ hành để dự đoán chính xác được những sự việc xảy ra trong cuộc sống một con người?”.
Trước khi nói về Tử vi, tôi xin lạm bàn đôi lời về câu ngạn ngữ phương Tây khi lý giải về số phận của con người “gieo ý nghĩ được hành vi, gieo hành vi được thói quen, gieo thói quen được tính cách, gieo tính cách được số phận”- một sự lý giải rất lôgic, rất khoa học và hoàn toàn hợp lý. Môi trường xã hội, môi trường tự nhiên qua các mối quan hệ, qua các hoạt động giao tiếp, các hành vi ứng xử, các nhu cầu của cuộc sống hàng ngày, hàng giờ luôn luôn gây ảnh hưởng, tác động đến con người và ngược lại con người cũng tác động trở lại những môi trường đó theo cách riêng của mình. Từ sự tác động qua lại đó dần dần sẽ tạo ra những kết quả tương xứng và hình thành nên số phận của mỗi người. Một người lạc quan mạnh mẽ khi nhìn một nửa cốc nước sẽ nói “cốc nước vẫn còn một nửa”, trèo lên lưng chừng dốc sẽ nói rằng ” sắp đến rồi, chỉ còn một nửa quãng đường nữa thôi”. Ngược lại, người yếu đuối, bi quan trong những trường hợp đó sẽ nói
“chỉ còn một nửa cốc nước” hay ” mới đi được một nửa quãng đường, còn lâu mới đến”. Hoặc khi gặp khó khăn cản trở một người kiên quyết làm cho xong, một người bỏ dở giữa chừng. Cứ như vậy, cuộc đời của hai người ngày càng tách xa theo hai hướng khác nhau. Người lạc quan mạnh mẽ sẽ hoà nhập và lôi cuốn được những người có cùng phong cách sống vì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, đó sẽ là một môi trường sôi động, vui vẻ. Mọi người xung quanh thấy được ở anh ta nguồn sức mạnh dồi dào có thể đương đầu được với mọi khó khăn gian khổ, như vậy anh ta sẽ là ứng cử viên sáng giá của ngôi vị lãnh đạo. Người yếu đuối bi quan, nhìn việc gì cũng chỉ thấy khó khăn, thất bại sẽ không thể cùng với mọi người làm việc lớn, khi gặp khó khăn anh ta sẽ là người đầu tiên rut lui, mọi người sẽ không tin tưởng vào anh ta. Càng ngày anh ta càng bị thu hẹp cơ hội thăng tiến, thu hẹp không gian sống. Ví dụ cụ thể như cùng rơi vào trạng thái buồn chán có người chọn biện pháp tự tử; có người uống rượu say, quậy phá rồi bị bắt; có người đi câu cá và trong lúc ngồi một mình suy nghĩ về sự việc đã tìm ra đường đi sáng sủa hơn; có người lại rủ bạn bè đi chơi cho quên sự buồn chán và trong chuyến đi họ đã vô tình tạo dựng được những mối quan hệ tốt đẹp để gây dựng sự nghiệp. Cũng là một sự việc nhưng với những tính cách khác nhau đã quy định những hành động khác nhau để cuối cùng tạo ra những số phận khác nhau. Những người không biết đối nhân xử thế kìm nén sự nóng giận, sẽ khiến người trên ghét bỏ, người dưới xa lánh. Hay như Khổng Tử nói” có ba loại chết không phải do mệnh: thứ nhất, không nghỉ ngơi đúng lúc, đầy đủ; không ăn uống điều độ; lao lực quá độ dẫn đến bệnh tật mà chết. Thứ hai là thân thấp hèn mà hay phạm thượng; nghiện ngập vô độ; tham lam vô đáy, đó là bị hình phạt mà chết. Thứ ba, người yếu đuối mà lừa dối xúc phạm kẻ mạnh hơn, người không tự lượng sức mình hay giận dữ, thường chết vì binh khí”. Còn nhiều ví dụ thực tế quan sát được trong cuộc sống hàng ngày chứng minh và như vậy chúng ta không thể không đồng tình với nhau rằng số phận do tính cách tạo ra.
Trở lại cội nguồn của tính cách, đó chính là ý nghĩ. Ý nghĩ được hình thành từ những hoạt động trong môi trường sống, từ sự giáo dục. Ở trong nhung lụa và bơ sữa những người giàu có sẽ không biết được cảm giác thi vị của cuộc sống khi được ăn bát cơm nóng, hay bị hoa mắt vì đói mềm người và giá lạnh. Người giàu luôn sợ chết vì chết sẽ không còn được hưởng sự sung sướng. Quan tham đã có đủ mọi thứ thì lúc nào cũng lo sợ bị tố cáo, bị trị tội vì vậy phải che đậy bằng mọi cách. Những ý nghĩ đó luôn ám ảnh trong đầu họ và khi cơ hội đến nó sẽ biến thành hành động. Còn người càng nghèo thì càng không sợ chết, càng nghèo càng chịu nhiều vất vả, khổ cực, vì cuộc sống mưu sinh, không có thời gian để tưởng tượng quá nhiều về cái chết. Trong đầu họ chỉ có ý nghĩ mong sao có thật nhiều tiền để đỡ phải khổ. Cho nên tục ngữ đã có câu : “quan hỏi hình phạt, giàu hỏi tai nạn, dân thường hỏi về phát tài”. Để hướng thiện, hãy cho đứa trẻ một nền giáo dục tốt. Nền giáo dục tốt ở đây không có nghĩa là phải có điều kiện vật chất đầy đủ, trang thiết bị hiện đại, môi trường đẹp hay những giáo viên tài giỏi mà trước tiên chỉ cần những hành động, cử chỉ đẹp, những quyển sách hay với ngôn từ trong sáng, hướng thiện, những bản anh hùng ca của dân tộc có hình tượng của những con người cống hiến sức mình vì dân, vì nước. Những hành động tưởng chừng như đơn giản nhưng dần dần một cách vô thức thân thể của đứa trẻ sẽ thấm nhuần đến từng tế bào, từng mạch máu, những ý nghĩ, những hình ảnh đẹp về cuộc sống, về con người. Và như vậy một chuỗi mắt xích hành vi, thói quen, tính cách sẽ được hình thành. Số phận cũng sẽ được hình thành từ đây. Như Hồ Chủ Tịch đã từng nói “Con người phần lớn do giáo dục mà thành”.
Khi nhận định về cuộc sống của một con người bằng những công cụ và phương pháp tư duy hiện đại đại đa số chúng ta không cần dùng đến Tử vi mà thường dựa trên cơ sở của việc phân tích tính cách, sức khoẻ, giáo dục, nền tảng gia đình, môi trường sinh sống và những quy luật vận động của xã hội……để đưa ra những kết luận có tính thuyết phục cao bởi sự tư duy lôgic tuân thủ những quy luật khách quan đã được khoa học và triết học hiện đại chứng minh sự đúng đắn như: có chí làm quan , có gan làm giàu; lợi nhuận cao thì rủi ro lớn; có thực mới vực được đạo; đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; lượng đổi chất đổi, bản chất hai mặt của một vấn đề…..
2. Tính khoa học của Tử vi
Dựa vào đâu Tử vi có thể đưa ra những thông tin dự đoán về số phận của con người?.
Tử vi luận đoán số phận con người dựa vào các yếu tố Năm – Tháng – Ngày – Giờ, điều đó cho thấy thời điểm chào đời rất quan trọng đối với số phận của con người, khi đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ thì đứa trẻ đó nằm trong một môi trường khác (thế giới khác) so với khi chào đời. Vì vậy thời điểm khi chào đời là thời điểm một người tiếp xúc hoà nhập với môi trường xung quanh, đánh dấu một mốc quan trọng trong việc định hình một số đặc trưng của con ngưòi. Nhưng có một số điểm mâu thuẫn ở đây, đó là theo sinh học, một ngưòi hình thành và phát triển dựa trên ADN được kết hợp giữa bố và mẹ, ngoài ra thời kỳ hình thành các bộ phận của con người như mặt mũi, chân tay, bộ óc..v..v…còn phụ thuộc vào tâm lý của người mẹ, chế độ dinh dưỡng, môi trường, nhiệt độ..v..v..Như vậy phần lớn những yếu tố để hình thành nên diện mạo, trí thông minh của một con người đã được định hình từ khi còn là bào thai. Khi trưởng thành lại bị tiếp tục ảnh hưởng bởi các yếu tố như: chế độ dinh dưỡng, cha mẹ, nền giáo dục, anh em – bạn bè, môi truờng tự nhiên, môi trường xã hội….mà những yếu tố trong tương lai này lại không thể tác động đến thời điểm sinh trong quá khứ. Như vậy thì thời điểm sinh của con ngưòi không có ý nghĩa quyết định đến diện mạo, tính cách cũng như không thể là yếu tố để xác định vận hạn tương lai và một số đặc điểm khác để hình thành nên con người.
Như vậy, các yếu tố mấu chốt ảnh hưởng đến tương lai của một người:
– Tướng mạo: quyết định bởi các yếu tố di truyền, dinh dưỡng, môi trường…
– Tâm tính: quyết định bởi sự di truyền, xã hội, giáo dục, môi trường
– Trí tuệ : quyết định bởi tính di truyền, giáo dục.
– và môi trường sống thời bình thời chiến , yếu tố xã hội, chính sách kinh tế chính trị……
Những yếu tố kể trên chẳng có quan hệ gì với thời điểm sinh, vậy các phương pháp giải đoán số mệnh dựa trên một nguyên tắc nào hay chỉ là do kinh nghiệm tích lũy? Tử vi căn cứ vào quy luật nào? Tại sao thời khắc sinh ra lại đeo đuổi con người cả đời và “ can thiệp” vào đủ mọi chuyện lớn nhỏ trong cuộc sống? Tại sao những đường nét cơ thể (tướng số) lại cho ta biết không chỉ đặc tính bẩm sinh mà cả thời vận nữa (là những yếu tố bên ngoài đem lại ), trong khi tương lai vẫn còn đang ở phía trước?
Để trả lời được những vấn đề trên, thì chúng ta cần phải phân tách rõ ràng quan niệm về số phận con người theo hai hệ thống của khoa học hiện đại và khoa Phương đông cổ. Ta sẽ thấy vấn đề cũng không quá phức tạp, vì trong mỗi một hệ thống khoa học có đều có những nguyên tắc riêng. Khoa học cổ (thuyết âm – dương Ngũ Hành) xác định vạn vật từ con người, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên….đều được hình thành từ 5 dạng vận động cơ bản (trong đó bao gồm 5 loại vật chất cơ bản là kim loại, đất, gỗ, lửa, nước) có quy luật vận động âm – dương rõ ràng là Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ. Theo sự xác định của khoa học hiện đại con người được cấu tạo từ nhiều loại vật chất hữu hình trong môi truờng Trái đất như sắt, magie, cácbon, canxi…và chịu sự tác động của những quy luật vận động của môi trường tự nhiên, xã hội, đây là việc đã được chứng minh bằng thực nghiệm và để dự đoán được cuộc sống của một con người cần phải có đủ các dữ kiện về không gian, thời gian, yếu tố di truyền. Nhưng theo học thuyết âm dương Ngũ hành, vạn vật đều được cấu thành dựa trên 5 dạng vận động cơ bản, chỉ cần dựa trên việc nghiên cứu quy luật vận động của 5 dạng vận động này mà người ta có thể dự đoán được xu hướng vận động của vạn vật. Con người cũng được hình thành từ Ngũ hành, nên cũng có thể dự đoán được số phận dựa trên việc nghiên cứu sự vận động của Ngũ hành. Tử vi hình thành trên nền tảng của học thuyết âm – dương Ngũ hành nên với Tử vi, không cần phải xác định ADN, giáo dục, xã hội…. một cách cụ thể như khoa học hiện đại chỉ cần xác định chính xác dữ kiện về mặt thời gian cấu thành kết quả của Ngũ hành (thời điểm con người ra đời) là đủ. Tất cả những yếu tố cần thiết đã được biểu tượng hoá bằng các “sao”1 trên lá số Tử vi theo những quy luật vận hành nhất định, dựa trên việc nghiên cứu quy luật vận hành của các sao để dự đoán số mệnh con người.
Bất cứ hiện tượng sự vật nào cũng đều có nguyên nhân và kết quả, không phải tự nhiên mà một người xuất hiện. Khi một cá nhân được sinh ra vào một thời điểm nhất định thì đó phải là kết quả tương tác của cả một quá trình hun đúc trong nhiều ngày tháng của cha mẹ, dòng họ, nhà cửa, mồ mả, phúc đức, của môi trường xã hội, của môi trường tự nhiên, của điều kiện vật chất, yếu tố di truyền….Những yếu tố âm dương ngũ hành thể hiện trong lá số Tử vi được xác lập dựa trên những dữ kiện về mặt thời gian năm – tháng – ngày – giờ sinh chính là hệ quả của cả một quá trình tương tác của những yếu tố âm dương ngũ hành đã tồn tại từ trước đó rất lâu (theo học thuyết âm dương Ngũ Hành thì kể cả những yếu tố về mồ mả, phúc đức, di truyền, môi trường tự nhiên, mô trường xã hội…tất cả đều được quy về tính chất của âm – dương Ngũ Hành) và chỉ khi hội tụ đầy đủ thì vào một thời điểm nhất định mới tạo ra được kết quả. Và từ việc nắm bắt những quy luật vận động của vật chất mà ở đây là ngũ hành người ta đã dựa trên những yếu tố cấu thành nên kết quả đầu tiên (cá nhân) để xác định ngược những nguyên nhân tạo thành và tiếp tục dự đoán xu hướng vận động của chúng (cuộc đời sau này).
Vậy Tử vi có thực sự là môn khoa học theo như cách định nghĩa của khoa học hiện đại hay không? Mặc dù Tử vi có tính hệ thống, có phương pháp làm việc, có dự đoán chính xác, nhưng hiện nay con người vẫn chưa chứng minh được sự khoa học2 của học thuyết “ âm – dương Ngũ Hành“ học thuyết sử dụng để giải thích bản chất của vũ trụ và con người được tổng hợp từ những kinh nghiệm trong cuộc sống của cư dân có nền văn hoá gốc nông nghiệp, nền tảng nên môn Tử vi. Và chính bản thân môn Tử vi cũng có nhiều hạn chế. Theo thống kê, với hơn 100 sao phân bố trên 12 cung cố định chúng ta chỉ thành lập được hơn 50 vạn lá số là không trùng nhau, một con số quá nhỏ, trong khi thế giới có hàng tỷ ngưòi không giống nhau. Tử vi chưa thực sự được chứng minh một cách có hệ thống là khoa học. Vì muốn đưa ra được dự đoán đúng, điều quan trọng là phải xây dựng được mô hình đúng. Muốn xây dựng mô hình đúng thì phải có đầy đủ dữ kiện. Con người tồn tại trong không gian, thời gian và thừa hưởng các tính cách đặc điểm di truyền; vì vậy một hệ thống tối thiểu phải mô hình hoá được 3 điều kiện đó. Nhưng Tử vi mới chỉ mô hình hoá được một thông số duy nhất là thời gian (năm, tháng, ngày, giờ sinh). Tử vi cũng chưa giải quyết được vấn đề những người sinh cùng giờ, để giải quyết được hạn chế này, phụ thuộc rất nhiều vào sự nhạy cảm mang tính cá nhân của người luận giải khi cân nhắc những sự việc trong quá khứ để đo lường ảnh hưởng kết hợp của âm – dương ngũ hành rồi đưa ra luận đoán cho tương lai. Nên rất khó khẳng định Tử vi là khoa học theo như định nghĩa của Triết học hiện đại.
Hiện nay chúng ta chỉ chứng minh một cách gượng ép Tử vi là khoa học bằng lý luận chắp nhặt mà chưa giải thích được tính chính xác của Tử vi. Khi sử dụng Tử vi có thể đưa ra dự đoán những sự kiện xảy ra trong cuộc sống của con người, thậm chí cả sau khi đã chết (ví dụ: mệnh chính tinh hãm địa lại gặp Lưu hà, Kiếp sát, Hoá kỵ, Địa kiếp thường sau khi chết còn bị mổ). Chính vì vậy nó vẫn mang màu sắc của sự thần bí. “Tử vi là khoa học” chủ yếu xuất phát từ lòng tin được hình thành qua kinh nghiệm kiểm chứng thực tế. Khoa học khác với lòng tin, chính vì vậy không thể coi Tử vi là một môn khoa học như toán học, vật lý, hình học.
Một nhà triết học thời Cổ đại đã từng nói rất đúng “không có ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Con người là một thực thể luôn luôn vận động thay đổi từng ngày từng giờ, theo từng thời kỳ tiến hoá. Vì vậy không thể đưa ra một định luật, hay một công thức chung để dự đoán chính xác đến từng chi tiết cuộc sống cuộc sống của con người, mà chỉ có thể đưa ra những quy luật, những nền móng cơ bản mang tính chất khái quát còn muốn dự đoán chính xác hơn thì tuỳ theo từng thời kỳ, từng hoàn cảnh những phần chi tiết phải có sự biến đổi cho phù hợp. Tử vi cũng vậy.
Mỗi bài toán đều có thể có nhiều phương pháp lý giải miễn sao đi đến kết quả đúng. Sự phù hợp với thực tế cuộc sống đã giúp Tử vi tồn tại và phát triển với thời gian của lịch sử mặc dù phải trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Mọi sự việc, sự vật đều có quy luật vận động, vấn đề quan trọng là có khám phá ra được những quy luật đó hay không. Con người là một thực thể đặc biệt nhưng cũng chịu tác động từ những quy luật vận động của thế giới mình đang sống và được cấu thành từ vật chất tất cũng có quy luật vận động riêng (kết quả của sự vận động này là điều mà ta gọi là số mệnh). Tử vi là một trong những phương pháp khám phá những quy luật vận động của con người dựa trên thuyết âm – dương Ngũ hành nên Tử vi cũng có thể dự đoán số mệnh của con người bằng những quy luật đã nhận biết được. Nhưng vì chưa được chứng minh bằng thực nghiệm mà mang nặng ”tính đúng”3 của Đạo học Phương Đông nên vẫn còn nhiều bí ẩn.
Thường những gì mắt nhìn thấy, tai nghe được hoặc xúc giác cảm nhận được thì bộ não tin (và con người tin) nhưng thực tế có những sự việc xảy ra ngoài khả năng tính toán của não bộ nên con người mới có khái niệm “số phận“. Một bộ não khó tính toán hết những vấn đề nhưng tổng hợp tinh hoa trí tuệ của nhiều người thì cũng có thể giải quyết được những vấn đề của “số phận“, Tử vi chính là một phương pháp tập trung tinh hoa trí tuệ của nhiều người qua nhiều thế hệ để nhận biết những quy luật của “số phận“, để dự đoán những sự việc xảy ra ngoài khả năng tính toán của một bộ não.
3. Những quan niệm phổ biến về Tử vi:
Với đại đa số công chúng, Tử vi giống như một thứ đặc quyền chỉ dành cho một số ít người trong xã hội. Nói đến Tử vi thường thì người ta liên tưởng ngay đến những người lớn tuổi, biết chữ Hán, biết lễ nghĩa Nho giáo. Liên tưởng đó là có cơ sở. Tử vi giống như một môn toán thống kê (thống kê thể hiện ở sự tích luỹ và tổng kết những trường hợp, sự việc để đưa ra kết luận) và những tính chất của các sao trong Tử vi chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định luợng rõ ràng: ví dụ khi sao Thai – Toạ đóng cung Điền trạch thì tiên đoán trước hình ảnh nhà cửa cao rộng nhưng cao bao nhiêu, rộng thế nào thì khó mà xác định được; Thiên mã là di chuyển nhưng di chuyển thế nào, bao xa thì cũng rất khó xác định. Nên bắt buộc người xem Tử vi phải nghiên cứu, tổng hợp được nhiều lá số, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm mới có thể đưa ra những giải đoán chính xác – mà kinh nghiệm thường đi liền với tuổi tác. Kính trọng người già cũng là một truyền thống văn hoá của người Việt.
(Không bị giới hạn đối tượng) và được kiểm chứng bằng kinh nghiệm của nhiều thế hệ nên tính đúng của Đạo Học thường khá cao.
Một lý do khác không kém phần quan trọng là do trước đây tài liệu bằng chữ quốc ngữ không nhiều. Với tâm lý vọng cổ của đại đa số những người nghiên cứu về văn hoá phương Đông, tôn trọng cổ nhân, tin tưởng tri thức của cổ nhân, thích được đọc sách cổ để hiểu sâu hơn về Tử vi. Nhưng phần lớn sách vở đó được viết bằng chữ Hán, để hiểu được, người nghiên cứu phải học chữ Hán. Biết chữ Hán còn đồng nghĩa với việc có thể đọc được nhiều tài liệu khác viết về Kinh Dịch, Tứ Trụ, Độn Giáp, Lục Hào, Tướng Pháp, Phong Thuỷ, Y học…..và đặc biệt là sách vở của Nho giáo. Từ đó ít nhiều do bị ảnh hưởng tư tưởng của Nho giáo nên những ông thầy Tử vi thường mang dáng dấp của một nhà Nho phong kiến. Những môn khoa học cổ phương Đông có chung nền tảng từ thuyết Âm – dương ngũ hành, vì vậy có sự tương đồng, liên quan với nhau nên họ thường thông thạo cả Nho, Y, Lý, Số làm cho mọi người càng thêm kính phục. Tuy nhiên có một vấn đề đáng quan tâm ở đây là có sự pha trộn kiến thức không hợp lý giữa các môn lý số. Việc tìm hiểu nhiều sẽ giúp cho người nghiên cứu có sự nhìn nhận khái quát hơn trong việc lý giải Tử vi nhưng cũng dễ dẫn đến tình trạng sử dụng kiến thức của nhiều môn khác để lý giải lá số Tử vi một cách gượng ép. Vì biết nhiều môn nên khi dùng Tử vi mà không lý giải được nguyên nhân của sự việc, những người này không chuyên nhất theo đuổi khám phá những quy luật của Tử vi mà dễ dàng sử dụng Kinh Dịch, Tứ trụ hay Kỳ môn độn giáp để phụ đoán. Xuất phát từ mục đích khác nhau nên mỗi hệ thống khác nhau đều có cấu tạo khác nhau vì vậy chúng không dễ dàng trộn lẫn. Người có kiến thức uyên thâm thì sẽ thấy sự bất hợp lý và tìm được sự lý giải đúng, người khác thì sẽ cho rằng Tử vi có kỳ cách không rõ ràng hoặc là sẽ lý giải một cách chủ quan. Nhiều khi những người này giải đoán đúng không phải là do dùng Tử vi mà do sử dụng Bói Dịch, Tứ trụ, Độn Giáp hoặc là do cảm nhận chủ quan của cá nhân. Quan điểm sử dụng các quẻ Kinh Dịch áp vào lá số Tử vi để giải đoán là một sai lầm. Đây là hệ quả của việc coi Kinh Dich là “Quần thư chi thủ”4. Tuy cùng xuất phát từ triết lý Âm dương nhưng Bát quái và Ngũ hành được hình thành từ hai hình thức tư duy khác nhau, tư duy tổng hợp biện chứng coi trọng mối quan hệ của các hiện tượng sự vật (ngũ hành) còn tư duy phân tích lí tính coi trọng các yếu tố của hiện tượng sự vật (bát quái). Nhưng tại sao nó lại vẫn có sự hợp lý. Hợp lý bởi vì chúng cùng phản ánh những điều tất yếu, mà đã là tất yếu thì tất nhiên là phải đúng. Giống như “mặt trăng” và “moon”, cả hai đều phản ánh đúng một sự vật. Nhưng hình thức biểu diễn của tiếng Anh “moon” là ngôn ngữ biến hình còn “mặt trăng” của tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập. Khi áp dụng các quẻ Kinh Dịch để luận giải Tử vi là không hợp lý, vì hình thành trên nền tảng tư duy hoàn toàn khác nhau nên trong hệ thống tư duy của Tử vi chúng không tạo ra sự thống nhất – các sao trong lá số Tử vi không bao giờ được xem xét một cách độc lập như quẻ Dịch để xác định tính chất của nó mà luôn luôn được định hình trong mối quan hệ tổng hợp với nhau. Nếu sử dụng phương pháp này thì khó có thể lý giải chi tiết lá số Tử vi theo một hệ thống hoàn chỉnh. Chính sự đa phương tiện trong nghiên cứu là một nguyên nhân làm cho Tử vi trở nên khó hiểu. Hệ quả của những lý giải gượng ép làm sản sinh ra hàng loạt những câu phú vô nghĩa, không phản ánh đúng sự thật. Người tìm hiểu về Tử vi dễ bị lầm lạc khi nhận ra là cùng một sự việc Nhan Hồi chết yểu nhưng có đến cả chục câu phú đoán tồn tại:
Nhan Hồi yểu chiết, Văn xương hãm ư Thiên thương
(Đẩu số cốt tuỷ phú giải)
Nhan Hồi yểu tử do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh thủ mệnh. (Thái Vân Trình)
Kỵ tinh Xương Khúc đồng hương
Nhan hồ số ấy nghĩ thương anh tài
Sát (Thất sát) lâm tuyệt địa hội Dương – Đà Nhan hồi yểu chiết
(Thái Thứ Lang)
Nhan Hồi chết vì cách nào đây?
hay là việc cho rằng cách này chỉ áp dụng với tuổi này, tuổi kia như:
– “ Xương – Khúc sinh nhân Kỷ Tân Nhâm hạn Thìn – Tuất đáo đầu hà”
người tuổi Kỷ, tuổi Tân, tuổi Nhâm mệnh có Văn xương, Văn khúc hạn đến cung Thìn, Tuất thì chết vì sông nước.
Sát Kình ở tại Ngọ cung,
Tai ương thảm khốc chờ trong cuộc đời.
Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế,
Bậc anh hùng địa vị thênh thang.
(Tử vi thực hành – dịch lý huyền cơ)
Mệnh ở cung Ngọ có Thất Sát, Kình Dương thì trong cuộc đời phải gặp tai ương thảm khốc, có sách còn chú giải là chết chém. Nhưng nếu người tuổi Giáp, tuổi Kỷ thì lại là bậc anh hùng có địa vị lớn.
Liêm: Mùi Sửu cùng vì Thất Sát,
Tuy cang kiên nhưng chắc chết đường;
Nhưng mà Kỷ, Ât sinh nhân
Anh hùng trí dũng mười phần khá khen.
(Tử vi thực hành – dịch lý huyền cơ)
Mệnh ở cung Sửu, cung Mùi có Liêm trinh, Thất Sát tính khí kiên cường nhưng phải chết đường. Nhưng người tuổi Kỷ, tuổi Ât thì lại là anh hùng trí dũng song toàn.
Hoặc như việc đưa cả những kinh nghiệm của tín ngưỡng dân gian và những tổng kết của môn Tứ trụ vào Tử vi để giải đoán như : trẻ em sinh giờ “quan sát”, giờ ” kim xà thiết toả” hay bị yểu chiết; mệnh Mộc sinh vào mùa xuân, mệnh Hoả sinh vào mùa Hạ, mệnh Kim sinh vào mùa thu, mệnh Thuỷ sinh vào mùa đông thì vượng; tuổi Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu mà sinh giờ Thìn Tuất, Sửu, Mùi thì rất độc; tuổi Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi sinh giờ Tí, ngọ, mão, dậu, tỵ hợi , thân thì khắc mẹ…..
Những người đưa ra cách lý giải này đã thực sự không hiểu rằng tuy các môn khoa học cổ cùng được xây dựng trên một nền móng là thuyết Âm dương – ngũ hành nhưng vì để đạt được những mục đích khác nhau nên chúng phải có sự biến đổi cho phù hợp với hệ thống. Tử vi cũng hình thành từ lý thuyết âm – dương Ngũ hành nhưng những chi tiết biểu diễn này đã vượt qua cả sự định tính của Âm – Dương ngũ hành mà đã đạt đến lý tính, tức là dùng Lý để suy – Những tính chất Âm – dương ngũ hành của các thông số đầu vào là can – chi năm, tháng, ngày, giờ sinh khi qua hệ thống Tử vi đã được xử lý biến đổi thành hơn 100 sao có tính chất riêng không còn phụ thuộc vào tính chất của ngũ hành ban đầu, không phân biệt vào việc cá nhân sinh vào năm nào, giờ nào mà chỉ phụ thuộc vào kết cấu của các cung, các sao trong lá số – ví dụ dựa vào quy luật sinh khắc của Âm – Dương Ngũ hành để xác định vị trí của sao Thiên mã, nhưng Thiên mã trên lá số Tử vi không còn là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ mà là xe, là ngựa, là sự di chuyển… . Nên khi không lý giải được tại sao cùng vào hạn Khoa – Quyền – Lộc có người thăng quan phát tài, có người thì lại gặp tai nạn rủi ro nên họ đã gán ghép cho đó là tại tính chất của ngũ hành Kim phạt Mộc, Hoả luyện Kim, hay Kim sinh Thuỷ…..thấy người được thăng chức có Hoá Quyền ở cung Thân, Dậu nên cho rằng Hoá Quyền có tính chất ngũ hành kim ở Thân, Dậu là lợi địa, còn cũng gặp hạn Hoá Quyền nhưng bị mất chức tai nạn nên cho rằng Hoá Quyền ở cung Tỵ, Ngọ là thất lợi vì hoả luyện kim. Nhưng cũng Hoá Quyền ở người khác nó lại là Mộc, hoặc có sách cho sao Linh tinh có tính chất ngũ hành là Kim, sách khác lại cho là tính Hoả. “Mỗi sao có một hành riêng. Hành này góp phần tăng cường hay chế giảm ý nghĩa của sao. Một sao có hành tương hợp với cung toạ thủ thì đắc địa, tương khắc thì hãm địa. Đắc địa, sao sẽ mạnh nghĩa hơn. Hãm địa, ý nghĩa bị kém đi hoặc mất hẳn. Giữa hai sao cũng vậy, nếu gặp tương sinh về ngũ hành thì hai sao cùng đắc thế, ý nghĩa sao này phụ trợ cho ý nghĩa sao kia: nếu gặp tương khắc thì hai sao tương nghịch, ý nghĩa sao này làm giảm thiểu ý nghĩa sao kia. Thành thử sức mạnh của một sao không hoàn toàn phụ thuộc sao đó, mà còn lệ thuộc vào quy luật sinh khắc ngũ hành với cung và sao khác. Nhờ quy luật sinh khắc ngũ hành trong các sao, khoa Tử vi đã đẩy mạnh sự phân tích đến trình độ hết sức khúc chiết, đề cao sự tương quan giữa các yếu tố nhỏ, diễn xuất được những uẩn khúc vi tế hơn nữa của các yếu tố nhỏ ”
5….Cứ như vậy, mỗi người một kiểu lớp sau tiếp nối lớp trước và khi gặp sự khó khăn trong lý giải thì cho đó là “kỳ cách”6 hoặc sẽ lại ghép cho các sao một tính chất ngũ hành khác để cho phù hợp với sự lý giải có tính chủ quan của mình. Hoặc sáng tạo ra phương pháp Tự Hoá, hay như trường phái Thiên Lương cho rằng tuổi Nhâm có Hoá kỵ an cùng Tả phù, thậm chí như tác giả của cuốn sách “Tử vi thực hành” – dịch lý huyền cơ – còn cho rằng khoa Tử vi chỉ nhằm sắp đặt các vị tinh tú bao quanh thái dương trong một hệ luân chuyển của thời gian và không gian để tìm ra cái ảnh hưởng vận chuyển của nó đối tác động đến một con người – Tử vi là sự tích hợp của nhiều môn chứ không hoàn toàn chỉ dựa trên Thiên văn học, có nhà thiên văn nào chỉ ra được trên bầu trời sao Hoá khoa, Hoá lộc, Hoá quyền và sao nào là của ông vua còn sao nào là của thường dân, tất cả chỉ mang tính biểu tượng. Hệ thống nào ít nhiều cũng có lỗi, nhưng lỗi hệ thống không phải nằm ở sự lý giải có tính chủ quan như vậy. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chính tác giả của “Tử vi tổng hợp” – Nguyễn Phát Lộc cũng đã đề cập đến sự mâu thuẫn khi áp ngũ hành cho các sao” trong một cung , ít ra cũng phải có 6, 7 sao thuộc 5 hành khác nhau, tác động lẫn nhau và tác động với hành cung, tạo thành một liên hệ phản xạ chằng chịt, khiến cho nhiều người bị lạc vào mê hồn trận, kiểu như Bát quái trận đồ của Khổng Minh vậy. Ngũ hành tương sinh theo một vòng kín, không có khởi điểm: Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, rồi Thuỷ trở lại sinh Mộc. Cái vòng đó cũng không có dứt điểm. Nó giống như một lối nói bình dân cho rằng “kỳ nhông là ông kỳ đà, kỳ đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kỳ nhông”, rốt cuộc không biết con nào làm chúa. Cái vòng sinh khắc của ngũ hành cũng luẩn quẩn như vậy. Nó làm cho Tử vi khó đoán”.
Tư tưởng cho rằng Tử vi không thể đoán số cho người tu hành cũng là một sai lầm. Con người được hình thành từ vật chất, mà vật chất thì phải tuân theo những quy luật vận hành của vật chất. Nhà tu hành cũng là người, cũng được tạo nên từ xương, từ thịt, cũng phải ăn để sống nên cũng không thể thoát khỏi những quy luật sinh, lão bệnh, tử. Vạn vật trên Trái đất này đều phải chịu sự tác động của những quy luật vận hành trong trời – đất như nắng nóng – mưa lạnh, ban ngày thuỷ triều xuống – ban đêm thuỷ triều lên, nhảy lên cao phải rơi xuống thấp…, Những quy luật đó đã được con người xây dựng thành học thuyết Âm – dương ngũ hành – “thiên địa vạn vật nhất thể, vũ trụ làm sao con người làm vậy, con người là một tiểu vũ trụ, từ đó suy ra rằng các mô hình nhận thức đúng với vũ trụ cũng sẽ đúng cho lĩnh vực con người” – Tử vi được xây dựng từ nền tảng học thuyết Âm – dương ngũ hành để lý giải cuộc sống con người, nên chỉ trừ khi thoát ra khỏi quỹ đạo của Trái Đất, thoát ra khỏi sự tác động của các quy luật vận hành của Trái Đất nhà tu hành mới thoát ra khỏi tầm kiểm soát của Tử vi.
Bây giờ ít người xem Tử vi còn thông thạo cả Nho, Y, Lý, Số, nhưng vì cuộc sống mưu sinh họ thường phục vụ kèm theo việc cúng bái, viết sớ, bày đặt chuyện dâng sao giải hạn hoặc cầu phúc, cắt tiền duyên, di cung hoán số một cách thái quá….tuyên truyền mê tín dị đoan hòng trục lợi nên càng làm cho Tử vi trở nên thần bí, khó hiểu trong con mắt của nhiều người.
(Tử vi chân thuyên – Kiều Nguyên Tùng)