Về xuất sứ của sao Cự Môn, cần phải nhắc đến một đoạn trường tình của Khương Tử Nha với người đàn bà thô tục, vụng về, lăng loàn với người đàn bà tên là Mã Thiên Kim. Mã Thiên Kim sống với Tử Nha không chịu nổi cảnh thanh bần, nghèo khó đã bỏ ông đi với người khác.
Mã Thiên Kim bên cạnh Khương Tử Nha |
Ngay khi mã Thiên Kim rời đi thì cũng là lúc Tử Nha trở thành quân sư của Văn Vương. Mã Thiên Kim chết đi được mời chưởng quản sao Cự Môn là nữ thần trông coi việc thị phi, mồm mép.
Đặc điểm sao Cự Môn
– Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh
– Tính: Âm
– Hành: Thủy
– Loại: Ám Tinh
– Chủ về: Ngôn ngữ, thị phi
– Tên gọi tắt: Cự
Vị trí Cự Môn ở các Cung
– Miếu địa ở các cung: Mão, Dậu.
– Vượng địa ở các cung: Tý, Ngọ, Dần.
– Đắc địa ở các cung: Thân, Hợi.
– Hãm địa ở các cung: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ.
Sao Cự Môn là sao thứ 4 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ, theo thứ tự bao gồm: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Sao Cự Môn ở Mệnh
Ý nghĩa tướng mạo, ngoại hình, tính cách
+ Cung Mệnh có Cự Môn, nên thân hình đẫy đà, thấp da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, mắt lộ.
+ Sao Cự Môn ở cung miếu địa, vượng địa hay đắc địa thì thông minh, nhân hậu, vui vẻ, mưu trí, có khả năng phán xét tinh vi.
+ Sao Cự Môn ở cung hãm địa thì kém thông minh, hay nhầm lẫn, không có tánh dứt khoát, ba phải, người hay nói khoác, ích kỷ, đa nghi, tính khí hay thay đổi, tham lam, có tài nhưng kém đức, hay lợi dụng. Người nữ thì hay đố kỵ, ghen tuông, đa nghi.
– Nam mệnh
+ Cự miếu, vượng hay đắc địa, thủ Mệnh là sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc có uy danh lừng lẫy, phúc thọ song toàn.
+ Cự hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ sinh dục, hay mắc những tai nạn khủng khiếp, chân tay thường bị vướng vào xích xiềng, và chắc chắn là yểu tử, nhưng chết một cách rất thê thảm.
– Nữ mệnh
Cự Miếu địa hay đắc địa thủ Mệnh, là người tài giỏi đảm đang, có đức độ, rất vượng phu ích tử, lại được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây, nếu Cự gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, phúc thọ song toàn.
+ Cự hãm địa là người có tướng lạ, ai mới trông thấy cũng qúy mến, nhưng lại có tính dâm dật, hoang đàng gian tham, ăn nói sàm sỡ điêu ngoa, hay ghen tuông, suốt đời vất vả, có nhiều tật bệnh, thường mắc những tai nạn bất kỳ, nếu không sớm ly tổ nhất định là không thể sống lâu được.
+ Cự hãm địa, nên muộn lập gia đình, để cố tránh những sự dở dang, đau đớn về sau này.
+ Cự hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng hại con, phải lang thang phiêu bạt, có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ phận sinh dục, thường mắc những tai nạn khủng khiếp, đáng lo ngại và tất nhiên là yểu tử, nhưng chết một cách rất thê thảm.
Ý nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ
+ Cự miếu, vượng hay đắc địa là người thông minh, nhân hậu, vui vẻ, có mưu cơ, có trí xét đoán sáng suốt, ăn nói đanh thép, được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây, nếu Cự gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, có uy quyền hiển hách và danh tiếng lừng lẫy.
+ Cự miếu, vượng hay đắc địa gặp Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Tuế Hình, là người có văn tài lỗi lạc, khẩu thuyết hùng hồn, thích hoạt động chính trị, thường chuyên về tư pháp, ngoại giao.
+ Cự miếu, vượng hay đắc địa, gặp Hổ, Tuế, Phù hội hợp là người biết nhiều luật pháp, hay lý luận, thường làm quan tòa, thầy kiện.
+ Cự vượng địa, Tý, Ngọ là người học rộng tài cao có đức độ. Đây, Cự ví như ngọc giấy trong đá. Vậy cần phải gặp Hóa Lộc đồng cung, hay gặp Tuần, Triệt án ngữ, như thế ngọc mới lộ vẻ sáng đẹp. Cung Mệnh có cách này mới được hưởng phú qúy. Trái lại, nếu Cự không gặp Hóa Lộc đồng cung, không gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay nếu Cự gặp Tồn đồng cung: thật chẳng khác gì ngọc chìm sâu trong đá. Cung Mệnh có cách này là người đa học, đa năng nhưng không gặp thời.
+ Cự miếu, vượng hay đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình, tuy vẫn sống lâu, nhưng suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, thường phải sớm xa cách gia đình, sức khỏe suy kém, có bệnh tật hoặc ở mắt, hoặc ở bộ sinh dục, lại hay mắc tai nạn, hay mắc thị phi kiện cáo, và khó tránh thoát được sự cầm hãm trói buộc.
+ Cự hãm địa là người kém thông minh, gian quyệt, tham lam, khắc nghiệt, đa nghi, không cẩn ngôn, hay nói khoác lác, không thích giao thiệp rộng nên ít bạn bè, suốt đời vất vả, có nhiều bệnh tật, thường mắc thị phi, kiện cáo, tù tội hay mắc tai nạn, nếu không sớm ly tổ, tất không thể sống lâu được.
+ Cự hãm địa, Thìn, Tuất rất mờ ám xấu xa, nhưng đối với tuổi Qúy, Tân lại thành sáng sủa tốt đẹp, vì có sự ứng hợp. Vậy, cho nên tuổi Qúy, Tân mà cung Mệnh an tại Thìn, Tuất, có Cự tọa thủ là người thông minh, được hưởng giàu sang và chẳng đáng lo ngại nhiều về sự chẳng lành xảy đến trong đời.
+ Cự hãm địa, Thìn, Tuất đối với tuổi Đinh, Canh lại càng mờ ám xấu xa, vì có sự khắc hãm. Vậy cho nên tuổi Đinh, Canh mà cung Mệnh an tại Thìn, Tuất, có Cự tọa thủ, thật là khổ sở, khốn đốn đến cùng cực.
+ Cự hãm địa, Sửu, Mùi rất mờ ám xấu xa, nhưng đối với tuổi Ất, Bính, Tân lại thành sáng sủa tốt đẹp, vì có sự ứng hợp. Vậy cho nên tuổi Ất, Bính, Tân mà cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Cự tọa thủ, là người thông minh, học rộng, hiển đạt, khá giả và chẳng đáng lo ngại nhiều về bệnh tật, hay tai ương họa hại bất kỳ.
+ Cự hãm địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc là người hiểu biết sâu rộng, cũng có văn tài, ăn nói khôn ngoan đanh thép, thường hoạt động chính trị, hay làm thầy giáo và cũng được hưởng giàu sang.
+ Cự hãm địa gặp Lộc, Tuế hội hợp, nên đi buôn.
+ Cự hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình, thật chung thân cùng khốn cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ sinh dục, hay mắc những tai nạn khủng khiếp, chân tay thường bị vướng vào xích xiềng và chắc chắn là yểu tử, nhưng chết một cách thê thảm.
+ Cự, dù Miếu địa, Vượng địa, đắc địa hay hãm địa, gặp Kỵ đồng cung, tất không thể tránh thoát được những tai nạn hoặc về sông nước hoặc về xe cộ.
Những Bộ Sao Tốt
Cự Môn, Thái Dương đồng cung ở Dần: Vinh hiển và danh giá suốt ba đời (ông, cha, mình). Nếu ở Thân thì không bằng ở Dần, chỉ khá giả mà thôi, trước có công danh, sau mới có tiền bạc.
Nếu thêm Quyền, Phượng: Sự tốt đẹp tăng thêm, tuy nhiên, nếu gặp Lộc Tồn thì lại xấu suốt đời bất đắc chí, đời lông bông, hao tán của cải, chơi bời lang thang.
Mệnh được Cự Nhật đồng cung chiếu: Cũng được tốt đẹp như Cự, Nhật tọa thủ.
Cự Cơ ở Mão và Dậu: Có quan chức lớn, tài lộc dồi dào (đại phú). Ở Dậu thì kém hơn ở Mão. Đặc biệt bốn tuổi Ất, Kỷ, Bính, Tân thì càng thịnh đạt và cả hai mặt phú và quí.
Nếu có thêm Đại, Tiểu Hao: Rất giàu có và uy quyền, danh tiếng lừng lẫy, nhưng tính tình phóng đãng, ăn tiêu hoang phí.
Cự Khoa ở Thìn Tuất: Có biệt tài về ăn nói, có khả năng du thuyết.
Tuổi Tân, Mệnh ở Tứ Mộ, Cự tọa thủ: Vẫn khá giả dù Cự hãm địa. Nếu thêm Tả, Hữu, tai họa bị chiết giảm đi nhiều, dù cho có Hóa Kỵ đồng cung.
Những Bộ Sao Xấu
Cự hãm, Kình, Đà: Người yếu đuối, bị bệnh nan y. Nếu không bệnh thì trộm cắp, đàng điếm, phá hoại; nữ thì lăng loàn.
Cự Hỏa Linh: Rất xấu, có thể bị chết thảm nếu hạn xấu.
Nếu thêm Kình hay Đà: Có thể tự tử bằng cách tự trầm hay thắt cổ. Nếu không chân tay bị tàn tật, phỏng nặng, làm bếp, nội trợ giỏi.
Cự ở Tý Ngọ gặp Lộc Tồn đồng cung: Có học, có tài nhưng bất đắc chí vì không gặp thời.
Cự ở Hợi Tý gặp Lộc Tồn đồng cung: Không phát huy được tài năng, dù được Lộc Quyền hội họp. Đây là trường hợp một người có cao vọng nhưng bất toại chí.
Nữ mệnh có Cự Kỵ: Con gái thì thất trinh, đàn bà thì thất tiết.
Cự Tham Hao, Cự Tham Riêu: Hạn ở nhà, ngồi tại chỗ thất nghiệp, bị tù tội, bị thưa, bị phạt tiền do sai phạm trong công việc, hạn gặp chuyện phiền nhiễu.
Cự Môn ở Cung Phụ Mẫu
– Bất cứ tại vị trí nào, cha mẹ cũng bất hòa. Trong nhà có sự tranh chấp.
– Đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: cha mẹ giàu sang, nhưng không hợp tính với con.
– Đơn thủ tại Tỵ: hai thân thường xa cách nhau. Nếu không, cũng sớm khắc một trong hai thân.
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: cha mẹ bỏ nhau, hay một còn một mất từ lúc con còn ít tuổi.
– Nhật đồng cung tại Dần: hai thân giàu có, qúy hiển và sống lâu, lợi ích cho cha nhiều hơn cho mẹ.
– Nhật đồng cung tại Thân: hai thân vất và, sớm khắc một trong hai thân. Nên làm con nuôi họ khác.
– Đồng đồng cung: sớm xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí. Có đi xa hay làm con nuôi họ khác mới tránh được mọi sự hình khắc. Nhưng dù sao chăng nữa, ít nhất là phải sớm lìa bỏ một trong hai thân.
– Cơ đồng cung: sớm khắc một trong hai thân. Nên phải xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí.
– Cự Môn: mộ bác ruột, nếu lúc sinh ra đời, bác đã khuất bóng hay là mộ ông bác (bên nội) nếu bác còn, ông bác đã mất. Đất vuông vắn, thường ở gần đình sở hay lâu đài, đào sâu, thấy ở dưới có lớp đất màu vàng.
– Đơn thủ lại Hợi, Tý, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu, về già rất sung sướng. Họ hàng giàu có qúy hiển.
– Đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: giảm thọ. Suốt đời lao tâm khổ tứ chẳng được xứng ý toại lòng,
lại hay mắc tai nạn khẩu thiệt, kiện cáo. Phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân. Trong họ
thường có sự tranh chấp, nhiều người phiêu bạt giang hồ, nếu không, cũng khốn cùng, mắc hình
ngục, hay yểu tử.
– Tọa thủ tại Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu và sung sướng. Họ hàng qúy hiển, giàu sang, có danh giá và uy quyền tế thế.
– Tọa thủ tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý: bạc phúc nên tuổi thọ bị chiết giảm. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Nên ly tổ hay ở xa gia đình. Họ hàng càng ngày càng sa sút ly tán, có nhiều người gian quyệt nhưng bần cùng, có người phiêu bạt giang hồ, lại có người mang ác tật hay mắc tai nạn chết một cách thê thảm
– Đồng đồng cung: giảm thọ, suốt đời vui ít buồn nhiều, hay mắc tai nạn, khẩu thiệt, kiện
cáo. Phải ly tổ, xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, thường tranh chấp lẫn nhau.
– Cơ đồng cung: tuy được hưởng phục, nhưng lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng. Về già hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả.
Cự Môn ở Cung Điền Trạch
– Hay mắc thị phi, kiện cáo về nhà đất.
– Đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: có tổ nghiệp để lại, nhưng không được thừa hưởng. Tự tay gây dựng ở xa quê hương. Về sau mua tậu được nhiều nhà đất.
– Đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: không có nhà đất. Nếu có cũng rất ít, rất nhỏ mọn, tầm thường.
– Đồng đồng cung: không có nhà đất, về già may mắn lắm mới có một chốn nương thân.
– Nhật đồng cung tại Dần: giữ vững được tổ nghiệp. Về sau mua tậu thêm được nhiều nhà đất.
– Nhật đồng cung tại Thân: buổi đầu phá tán tổ nghiệp, hay phải lìa bỏ tổ nghiệp. Về già mới có nhà đất. nhưng rất ít.
– Cơ đồng cung tại Mão: rất nhiều nhà đất, một phần là của tổ nghiệp để lại.
– Cơ đồng cung tại Dậu: phá tán tổ nghiệp, hay lìa bỏ tổ nghiệp. Tự tay gây dựng, nhưng cũng không có nhiều nhà đất.
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: văn võ kiêm toàn, làm thầy giáo cũng nổi tiếng, có nhiều tài năng, nhất là ăn nói và tổ chức. Không những thế lại còn sẵn mưu trí nữa. Được hưởng phú qúy lâu bền, được nhiều người kính trọng vị nể.
– Đơn thủ tại Hợi: công danh sớm đạt, nhưng không nên trèo lên cao nhiều quá.
– Đơn thủ tại Tỵ: công danh trắc trở, chức vị nhỏ thấp, hay gặp tai ương.
– Đơn thủ Thìn, Tuất: công danh trước nhỏ, sau lớn, hay phải thay đổi công việc. Có tài xét đoán, luận lý và ăn nói hùng hồn nhưng thường gặp nhiều chuyện thị phì, hay có người gièm pha oán trách.
– Đồng đồng cung: rất chật vật trong đường công danh, phải nhờ người trên dìu dắt, giúp đỡ, hay mắc thị phi hình sự.
– Nhật đồng cung tại Dần: công danh hiển hách. Nên chuyên về hình luật, vì có tài luận lý, xét đoán.
– Nhật đồng cung tại Thân: công danh thăng giáng thất thường, hay mắc thị phi quân sự. Về già mới được xứng ý toại lòng.
– Cơ đồng cung: văn võ toàn tài nhưng hưởng phú qúy vững bền. Có nhiều mưu trí và rất ưa thích máy móc.
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ, Hợi: ra ngoài được nhiều người vị nể, tài lộc di kiếm, lời nói được nhiều người tin phục.
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất, Tỵ: hay mắc thị phì kiện tụng và tai nạn nguy hiểm, sau này chết ở xa nhà.
– Cự Môn, Thái Dương đồng cung tại Dần, Thân thì ra ngoài được quý nhân giúp đỡ, mọi người kính nể, tài lộc hưng vượng.
– Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung thì ra ngoài khá giả, đi buôn bán thì giàu có nhưng hay bị miệng tiếng.
– Cự Môn, Thiên Đồng đồng cung thì hay được gần quý nhân, nhưng hay bị chê bai.
– Bệnh ở hạ bộ, mặt thường có vết, lúc ít tuổi có nhiều mụn nhọt.
– Nhật đồng cung: hình dáng kỳ dị.
– Kình, Hỏa đồng cung: bệnh do tửu sắc gây nên.
– Kỵ đồng cung: chết đuối.
– Cự, Cơ đồng cung thì hay có bệnh về khí huyết.
– Đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: tay trắng lập nghiệp, hoạnh phái tiền tài, nhất là trong lúc náo loạn, cạnh tranh.
– Đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: tiền tài tụ tán thất thường, hay túng thiếu và thường mắc thị phi, kiện tụng vì tiền.
– Nhật đồng cung tại Dần: giàu có lớn, dễ kiếm tiền.
– Nhật đồng cung tại Thân: vất vả mới kiếm được tiền, phải gặp thời loạn hay phải đi ngang về tắt mới kiếm được đủ tiêu dùng, về già mới sung túc.
– Đồng đồng cung: tiền tài tụ tán thất thường nhưng hay túng chiếu và thường mắc thị phi, kiện tụng vì tiền. Có xa nhà hay lưu lạc nơi đất khách quê người mới phát đạt.
– Cơ đồng cung: kinh doanh, hoạt động, cạnh tranh ráo riết mà trở nên giàu có.
– Đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: từ năm con trở lên. Con sớm xa cha mẹ.
– Đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: may mắn lắm mới có hai con. Sinh nhiều, nuôi ít. Con lớn lên cũng không hiển đạt. Thường xung khắc với cha mẹ. Trong nhà thiếu hòa khí.
– Coi Thái Dương (Cự đồng cung tại Dần; Cự đồng cung tại Thân) – Thiên Đồng (Cự đồng cung) – Thiên Cơ (Cự đồng cung).
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ, Hợi: vợ chồng đẹp đôi, đều qúy hiến, nhưng hay bất hòa.
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất, Tỵ: vợ chồng bỏ nhau, trai hay gái đều hai hay ba lần lập gia đình.
– Đồng đồng cung: bỏ nhau, nếu không cũng phải xa cách rất lâu rồi mỏi đoàn tụ, vợ chồng rất thông minh.
– Nhật đồng cung tại Dần: vợ chồng hay có sự bất hòa, nhưng chung sống được với nhau trong cảnh giàu sang cho đến lúc mãn chiều xế bóng.
– Nhật đồng cung tại Thân: muộn lập gia đình, may ra mới tránh được sự chia ly.
– Cơ đồng cung: trai vợ đẹp, giàu sang, thao lược, gái lấy chồng tài giỏi, có danh chức. nhưng nên muộn đường hôn phối. Nếu không tất hay xảy ra những sự tranh chấp bất hòa, dễ đi đến chỗ chia ly.
– Đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: hai người, nhưng bất hòa.
– Đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: may mắn lắm mới có một người, nên ở riêng. Nhưng đôi khi lại có thêm rất nhiều anh chị em dị bào.
– Đồng đồng cung: may mắn lắm mới có hai người, trong nhà thiếu hòa khí, anh chị em có sớm xa cách nhau mới được toàn vẹn, có người mang cố tật hay mắc hình ngục.
– Coi Thái Dương c d – Thiên Cơ e
Cự Môn ở Cung Nô bộc
Cung Nô Bộc có sao Cự Môn: Thông thường người giúp việc, bạn bè hay nói xấu, oán trách, hay gây sự thị phi.
Cự Môn ở cung hãm địa: Bị phản bội.
Cự Môn ở Hạn
– Sáng sủa tốt đẹp, là Quyền tinh: mưu sự được toại lòng, hoạnh phát danh tài, nói được
nhiều người nghe theo, nếu mắc kiện cáo hay tranh chấp với người khác thì cũng thắng lợi. Nên chú
ý, trong trường hợp Cự nhập Hạn tại Hợi, gặp Lộc tất không nên mưu những việc quá lớn. Nếu nuôi
nhiều cao vọng như “ném kiếm lên sao Đẩu, sao Ngưu” chắc chắn là phải thất bại đau đớn.
– Mờ ám xấu xa: hay phiền lòng, mắc khẩu thiệt, thị phi, kiện cáo, hao tán tiền tài, đau yếu, có tang, nếu có quan chức tất bị bãi truất. Rất đáng lo ngại về tai nạn xe cộ nếu Cự nhập Hạn tại tại Tứ Mộ. Trong trường hợp này, nếu gốc đại hạn mười năm cũng xấu xa mờ ám, phải quyết đoán là chết.
– Kỵ: tai nạn sông nước, khẩu thiệt, thị phi.
– Tang: đau ốm nặng, có tang lớn.
– Tang, Hỏa, Linh: đau ốm, tán tài, có tang, nếu không nhà bị cháy (cung nhập Hạn ứng phương nào tất cháy từ phương đó).
(Dẫn theo trang tuvitoantap.blogspot.com)