Sáu tuyến của 12 cung
Xem bản cung và đối cung là một tuyến thẳng, thì 12 cung có thể hình thành sáu tuyến, gọi là: tuyến Mệnh Di, tuyến Huynh Nô, tuyến Phu Quan, tuyến Tử Điền, tuyến Tài Phúc, tuyến Phụ Tật. Hai cung của mỗi một tuyến đều là mối quan hệ âm dương đối chiếu, còn là mối quan hệ đối ứng trong ngoài và gần xa.
Mỗi một tuyến có ý nghĩa và tác dụng chủ yếu như sau:
Tuyến Mệnh Di
Còn gọi là tuyến sinh mệnh, tuyến hoạt động; có liên quan nhiều với sinh mệnh và hoạt động của mệnh chủ.
Cung Mệnh là nhân tố bên trong, bản thân, tình trạng hiện tại và bản địa; còn cung Thiên Di là hoạt động bên ngoài xã hội, tình trạng vị lai và nơi xa. Cung Mệnh mạnh hơn cung Thiên Di thì nên phát triển ở bản địa, cung Thiên Di mạnh hơn cung Mệnh thì nên phát triển ở nơi xa.
Tuyến Huynh Nô
Còn gọi là tuyến thành tựu, tuyến tiêu xài, tuyến trợ lực, tuyến tình cảm; có liên quan nhiều với tình hình được trợ lực và tiêu xài chi xuất của mệnh chủ.
Cung Huynh Đệ chủ yếu là quan hệ anh em trong nội bộ gia đình, quan hệ giao tế lúc ban đâu; còn cung Nô Bộc là quan hệ bạn bè bên ngoàỉ, quan hệ giao tế trong tương lai hoặc quan hệ giao tế mở rộng.
Tuyến Phu Quan
Còn gọi là tuyến sự nghiệp, tuyến yêu đương, tuyến hôn nhân; có liên quan nhiều với sự nghiệp và hôn nhân của mệnh chủ.
Cung Phu Thê là sự nghiệp nội tại thời gian gần đây; còn cung Quan Lộc là sự nghiệp bên ngoài trong tương lai. Cung Phu Thê không tốt cũng sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của mệnh chủ.
Tuyến Tử Điền
Còn gọi là tuyến đào hoa, tuyến vui chơi giải trí, giải trí, vui chơi kho tiền; có liên quan nhiều với cách vui chơi giải trí và tình trạng tích lũy của kho tiền của mệnh chủ.
Cung Tử Nữ là con cái ngay trước mắt; còn cung Điền Trạch là con cái trong tương lai (tức con cháu). Cung Điền Trạch không tốt, khó có được con cháu tốt (dương trạch chủ yếu quyết định tình trạng tốt xấu và thành bại của con cháu, âm trạch chủ yếu quyết định tính cách và địa vị của con cháu).
Tuyến Tài Phúc
Còn gọi là tuyến tiền bạc, tuyến yêu thích; có liên quan nhiều với tình hình tiền bạc và thị hiếu hưởng thụ của mệnh chủ.
Cung Tài Bạch là tiền bạc hiện tại, tiền bạc trong tầm tay; còn cung Phúc Đức là nguồn đế kiếm tiền và cách sử dụng sau khi kiếm được tiền. Cung Tài Bạch không tốt thì không có cơ sở để hưởng thụ vật chất; cung Phúc Đức không tốt thì ảnh hưởng nguồn tiền đến.
Tuyến Phụ Tật
Còn gọi là tuyến danh tiếng, tuyến chính trị, tuyến đầu óc, có liên quan nhiều với tình trạng văn thư, học hành, di truyền, tài trí, tiếng tăm, tật bệnh. Cha mẹ là nền tảng của một người, vì vậy nếu nền tảng là phú quý, thì cuộc sống lúc nhỏ tuổi của mệnh chủ khá tốt đẹp, cuộc sống của mệnh chủ có liên quan rất lớn với cha mẹ.
Cung Tật Ách là tố chất của cơ thể mệnh chủ; tố chất của cơ thể chịu ảnh hưởng di truyền của cung Phụ Mẫu.
Hai cung đối của cùng một tuyến có mối quan hệ khá mật thiết, có thể chiếu ứng lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau, như hình với bóng. Bản cung không tốt mà đối cung tốt, có thể được bổ cứu; nếu bản cung và đối cung đều không tốt thì không cách nào bổ cứu nhau.
Bản cung và đối cung là quan hệ nhân quả của nhau; lúc đại vận hoặc lưu niên gặp cung có sao Hóa Kị xung phá đối cung, sẽ dễ xảy ra hung sự.
Ví dụ: cung Tử Nữ không tốt, nguyên nhân có liên quan với cung Điền Trạch; còn cung Điền Trạch không tốt sẽ khiến con cháu không lành. Cho nên người có cung Tử Nữ không tốt có thể dùng biện pháp sửa chữa phong thủy nhà ở và mộ phần tổ tiên để cải thiện.
Cung Phụ Mẫu không tốt sẽ làm cho bản cung Thân hoặc cung Mệnh chủ được di truyền không tốt, cơ thể không khỏe mạnh; nếu người có cung Tật Ách không tốt sẽ dễ sinh bệnh, khiến cha mẹ phải lao tâm khổ tứ, hao tốn tiền bạc.
Cung Tài Bạch không tốt thì không có tiền bạc để hưởng thụ, tinh thần sẽ buồn phiền đau khổ; nếu cung Phúc Đức không tốt thì nguồn để kiếm tiền ít, ảnh hưởng đến thu nhập. Cho nên lúc xem bản cung, cần phải chú ý tham khảo đối cung.
Xem sự nghiệp và tài vận, bản phải rất xem trọng việc vận dụng tuyến Phụ Tật và tuyến Huynh Nô. Do tuyến Phụ Tật còn gọi là tuyến văn thư, Tứ Hóa nhập tuyến Phụ Tật sẽ có liên quan đến “danh tiếng” của mệnh chủ, dùng để xem vận thế; tuyến Huynh Nô còn gọi là tuyến thành tựu, Tứ Hóa nhập tuyến Huynh Nô sẽ có liên quan đến “tài lợi” của mệnh chủ, dùng để xem thành tựu; tuyến Mệnh Di là tuyến hoạt động xã hội, Tứ Hóa nhập tuyến Mệnh Di sẽ có liên quan đến “cách cục nhân sự” của mệnh chủ, dùng để xem hoạt động, địa vị.
Do các cung đều có thể là bản cung, đều có thể phi xuất tứ hóa, vì vậy các cung lại có sáu tuyến cung riêng của nó. Ví dụ, nếu lấy cung Huynh Đệ là bản cung, tức lấy cung Huynh Đệ là điểm thái cực, là cung Mệnh mới, bày lại 12 cung, rồi cặp cặp đối nhau, bày ra sáu tuyến của cung Huynh Đệ: tuyến Huynh Nô của mệnh bàn nguyên cục biến thành tuyến Mệnh Di của cung Huynh Đệ, tuyến Phu Quan của mệnh bàn nguyên cục biến thành tuyến Tử Điền của Huynh Đệ, tuyến Tử Điền của mệnh bàn nguyên cục biến thành tuyến Huynh Nô của cung Huynh Đệ, tuyến Tài Phúc của mệnh bàn nguyên cục biến thành tuyến Phu Quan của cung Huynh Đệ, tuyến Phụ Tật của mệnh bàn nguyên cục biển thành tuyến Tài Phúc của cung Huynh Đệ, tuyến Mệnh Di của mệnh bàn nguyên cục biến thành tuyến Phụ Tật của Huynh Đệ.
(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân)