Sự sống, sự chết trên lá số tử vi
QUẢN VĂN CHÍNH – 25 Bis, Tự Đức, Sài Gòn
Gần đây, nhờ Hiệp định ngưng bắn nhiều người biệt tích từ năm bẩy năm tưởng không còn sống ở trên đất nữa, bất ngờ được trở về đoàn tụ với Gia đình khiến cho thân nhân của những người đã ngộ nạn mừng rỡ. Nhưng họ đã chờ mãi không thấy con, em hay cha, chồng của họ trở về họ đã không ngần ngại mất công tốn của đi hỏi các nhà Tướng số về số phần của các đương sự, sau khi đã dò hỏi ở các Cơ quan liên hệ.
Nhận thấy đây là một vấn đề tối ư quan trọng mà một giai phẩm như KHHB này cần đề cập đến, nên tôi mạo muội trình bày ở đây cùng Quí vị độc giả xa gần những nhận xét; những kinh nghiệm cá nhân, với lòng mong mỏi là gom góp được một phần nhỏ mọn nào vào công việc nhìn trên lá số Tử vi mà biết được vận hạn sống, chết, ngõ hầu giảm thiểu được phần nào những băn khoăn, thắc mắc, những phân vân chờ đợi nó làm chúng ta không dứt khoát được để có thể sửa soạn một tương lai tươi đẹp. Vả lại, nếu quả thật khoa Tử vi Đẩu số có thể giúp chúng ta biết trước được Năm, Tháng, Ngày, giờ nào chúng ta sẽ “dứt tình vợ con, lìa rẽ anh, em chia đường kim cổ” thì chúng ta ắt phải sắp xếp lại cuộc đời, làm đẹp gấp rút hơn để tranh thủ với ngày tháng quá ngắn ngủi, nếu ta phải chết sớm. Trái lại, nếu chúng ta có được một cuộc đời lâu dài bền vững, ắt chúng ta phải sửa soạn thế nào để cố tránh cái nỗi buồn tủi của sự việc “đa thọ, đa nhục”.
Nhưng, việc “biết trước” này đâu có phải là dễ, và tuy khoa Tử vi đẩu số đã được Trần Đoàn lão tổ hệ thống hóa gần một ngàn năm nay rồi, mà đã có mấy người có thể nhờ khoa này mà “toán lai mệnh số” một cách rất chính xác được.
MẤY LÁ SỐ ĐẠI THỌ
Cho nên trong bài này, trước hết tôi xin trình bày mấy lá số đại thọ (80, 90 tuổi) để quí vị độc giả thấy được một cách rõ ràng do những sao nào, cách nào và vận niên thế nào, người ta sẽ được trường thọ, hoặc trung thọ. Kế đến, tôi xin trình bày do đâu với lá số Tử vi được phân phối ra sao, vị này sẽ chết non, chết yểu hoặc vì bệnh tật hoặc vì một tai nạn bất ngờ không tránh được, và ông kia tuy lá số chẳng tốt đẹp gì, mà cũng đi trọn được một cuộc đời trung bình không quá dài, nhưng cũng không quá ngắn. Cuối cùng, trong khi nói về mấy lá số, ngắn ngủi tôi xin phép được cái hân hạnh là treo ra một giải thưởng nho nhỏ để nhờ quí vị tài cao, kinh nghiệm nhiều vui lòng tìm hộ năm, tháng ra đi của mười người đã không may sanh ra dưới các vì sao quá hung ác để chứng minh rằng quả khoa Tử vi Đẩu số có thể biết được sự sống, chết và một khi đã tính ra được điều tối ư quan trọng này thì việc xét đến lẽ thịnh, suy, thành, bại phải là một điều không lấy gì làm khó.
Đến đây, như đã nói ở trên tôi xin nói về những lá số “đại thọ”
Trước hết là lá số của cụ Tuần phủ T.V.Đ. Cụ sanh năm Bính Tý, tháng 9 ngày 21 giờ Tý và thọ được 93 tuổi, cụ mất tại Saigon vào năm Mậu Thân 1968.
1) Cụ thọ như thế vì Mệnh của cụ đóng tại cung Tuất có Tham Lang miếu địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi ngộ được Tràng Sinh thì mới đại thọ. “Ngộ” là đồng cung hay chiếu nhưng vì Tràng Sinh bao giờ cũng đóng ở Dần, Thân, Tị, Hợi mà Tham Lang ở Tị Hợi lại Hãm, và đóng ở Dần, Thân cũng không tốt đẹp gì cho nên căn cứ vào tuổi thọ của Cụ Tuần, tôi thấy sở dĩ Cụ trường thọ là Mệnh của Cụ giáp Tràng Sinh (mộc tam cục nên Tràng sinh ở Hợi giúp Mệnh ở Tuất với lẽ “Chính bất như chiếu, chiếu bất như giáp” và với các sao đôi như Xương, Khúc, Tả, Hữu, Thai, Tọa hay Long, Phượng có thì “Giáp” mới có nghĩa là cả hai bên. Vì hiểu như thế nên đã có nhiều sách nói đến cái xấu của việc Mệnh “giáp” Hóa Kỵ!
Cụ Đạm Nguyên mà nhiều bà con Bắc Việt di cư thường biết là cháu nội của Cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, có lẽ rồi cũng thọ như cụ Tuần Đ. Vì cùng được cách Tham Lang miếu địa giáp Tràng Sinh. Cụ Đạm Nguyên sanh năm Canh Tí, tháng 7 ngày 13 giờ Thìn.
Năm 1968 (khi đó cụ đã 69 tuổi rồi) có cho tôi xem bàn tay của Cụ và tôi còn nhớ đến giờ là đường sanh đạo của Cụ ngắn lắm. Vậy Cụ thọ là nhờ Tham miếu giáp Tràng sinh
2) Lẽ thứ hai để giảng việc đại thọ của Cụ Tuần Đ. là cụ được cách Tham Lang miếu ngộ Linh tinh, lại có Hỏa tinh chiếu “Tham, Linh tịnh thủ tướng chi danh” (Tham Lang ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi ngộ Linh tinh là một danh tướng).
Dưới thời Pháp thuộc, làm đến Tuần phủ (là Tỉnh trưởng bây giờ) kể cũng là một chức vụ lớn lắm và hiếm lắm!
3) Lẽ thứ ba khiến Cụ Tuần thọ đến 93 tuổi là Mệnh của Cụ có sao Thiên Thọ đóng và được cách tốt là giáp Khôi, Việt.
Đọc trên đặc san KHHB, tôi thấy Cụ Thiên Lương có cho độc giả biết Cụ quen thân với Cụ thầy Ba La. Vậy tôi xin Cụ vui lòng thử xác nhận để mọi người cùng rõ là khi sanh tiền, cụ Ba La thường nói rằng 4 sao chỉ đại thọ là Thiên Thọ, Phong Cáo, Ân Quang và Thiên Quí. Mà cụ Tuần Đ có cả Phong Cáo chiếu Mệnh, và hai sao Quang, Quí tọa chiếu giải ách nên cụ người cao lớn, có chức phận sang trọng và đại thọ là đúng số lắm.
4) Gia dĩ Cụ thọ cao như thế là vì các sao Hung, Sát và Tuần Triệt hầu như “không dám” phạm đến Mệnh Thân của Cụ: Không Kiếp đóng ở cung Hợi, Hình Diêu ở Giải ách (Hao Hổ, Thiên Không, Kiếp Sát và Tuần Triệt, hình như cũng sợ mà lánh xa ông Thiên Thọ).
Nhân đây tôi nói thêm rằng các sao hung, sát và bại tinh thường chỉ có ảnh hưởng mạnh khi đi đôi với nhau mà thôi.
Trên lá số của cụ Tuần, sao Tang Môn đóng ở cung Dần (cung quan lộc) nên Bạch Hổ không chiếu vào Thân Mệnh thành ra sao Tang Môn ít ảnh hưởng đến đời sống và có lẽ đến cả hoạn lộ của Cụ nữa.
NHỮNG YẾU TỐ ĐẠI THỌ
Sau rốt qua lá số đại thọ của Cụ Tuần T.V.Đ tôi xin trình bầy ra đây những nhận xét như sau:
– Muốn được đại thọ (còn 70 tuổi gọi là Trường thọ) phải có những điều kiện sau đây trên lá số:
Một: Có được nhiều cách tốt đã được ghi trong các bài phú cổ, có giá trị như Phú của Trần Đoàn, và Thái Vi Phú;
Hai: Rất ít hung sát bại tinh phạm vào Thân, Mệnh, Phúc đức.
Tôi nói “rất ít” vì có lẽ khi đặt ra khoa Tử vi đẩu số nhân loại chưa được văn minh, khoa học mấy, con người ta thường là “Hữu thân hữu khổ” nên trong lá số Tử vi các sao xấu chiếm gần một nửa nên vừa chính vừa chiếu vừa hợp, vừa giáp (đấy là chưa kể đến các sao lưu) mỗi lá số cũng có, dù tốt đến đâu, mươi, mười lăm sao xấu xung chiếu…
Nhưng xin quí vị nhớ đến câu phú căn bản này:
– “Chư tinh cát phùng hung dã cát, chư tinh hung phùng cát dã hung”. (Nhiều sao tốt gặp một vài sao xấu vẫn tốt, nhiều sao xấu gặp một vài sao tốt vẫn xấu).
Xem như thế khoa Tử vi đẩu số thật quả là rắc rối cần phải nghiên cứu lâu năm, có nhiều kinh nghiệm mới có được lời giải đoán đúng.
MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU CŨNG ĐẠI THỌ
Mà kinh nghiệm đã giúp tôi nhận ra rằng như tôi đã trình bày tại một số báo trước. Mệnh Vô chính diệu nếu gặp được nhiều cách tốt cũng sống được thọ, tức là 80 hay 90 tuổi. Đó là trường hợp lá số tuổi Đinh Hợi, Âm nam, sanh tháng 9 ngày 20 giờ Dần.
Mệnh trên lá số này lập tại cung Thân vô chính diệu có Cự Nhật ở Dần và Đồng Âm ở Tý chiếu “hư không chi địa”.
Nhờ là Âm Nam vòng Đại hạn đi nghịch nên những đại hạn quan trọng, tức là từ những năm 15-24 tuổi đến năm 45-54 tuổi đều đã không gặp phải Địa Không Địa Kiếp và Thiên Không và mặc dầu cung Thiên Di có Thái Dương đắc địa ngộ Kỵ và Tướng Quân ngộ Triệt, đương số vẫn thọ đến 89.
MỘT TRƯỜNG HỢP LẠ
Cũng bởi quá căn cứ vào sự kiện trên, và cũng bởi đoán số mà không được quan hình xét tướng, nên tôi đã gặp một “trục trặc” mà tôi xin viết ra đây để quí vị độc giả cùng chiêm nghiệm và nhất là xin cho tôi biết ý kiến của quí vị.
Vốn là có một cụ lão thành đến nhờ tôi xét hộ niên của ông con trai Cụ sanh năm Tân Mùi (48 tuổi vào tháng Chạp năm Nhâm Tý 1972), tháng Giêng, ngày 03 giờ Mão.
Khi viết lời giải đoán, tôi đã 3 lần nêu lên sự e ngại của tôi về cung Thiên Di có Tướng quân và Thiên Mã ngộ Triệt, như vì năm 1971, năm Tân Hợi, đóng đến cung Thiên Di tức là một năm rất xấu mà bản Mệnh đã được vững vàng, cho nên tôi cũng đã đoán rằng năm 1972 cũng sẽ bình yên và đến đại hạn 43-52 tuổi cũng phải được tốt hơn đại hạn vừa qua ( tức là đại hạn 33-42 tuổi) vì đại hạn 43-52 có Thiên Lương ngộ Khoa, Lộc, Xương, Khúc hợp với Mệnh, Thân hơn đại hạn 33-42 có Sát, Phá, Tham, Không, Kiếp không hợp với Mệnh, Thân có Cự Nhật.
Song le đúng ngày Mồng một Tết Quí Sửu 1973, là ngày ông tuổi Tân Mùi ngộ nạn và phải nằm điều trị cho đến ngày hôm nay. Điều băn khoăn của tôi là tại sao tai nạn không xảy ra vào tháng Chạp năm ngoái để lời giảng giải trên lá số có vẻ hợp lý hơn.
Vậy thêm một lần nữa xin quý vị vui lòng cho biết tôn ý. Riêng tôi vì không gặp được trực tiếp ông tuổi Tân Mùi nên tôi vẫn băn khoăn về thời gian xảy ra tai nạn phải là năm 1971 hoặc 1972 tức là năm 41 hay 42 tuổi, nằm trong đại hạn 33-42, có Không Kiếp ngộ Thiên Không Kiếp sát.
Tuy nhiên cho dẫu tâm hồn nặng chĩu nỗi băn khoăn, và hiện đương gặp một khó khăn nan giải, tôi vẫn phải tiếp tục viết bài và tiếp khác, cho nên sau khi đã trình bày về hai lá số đại thọ cũng một “trục trặc kỹ thuật” vừa gặp phải, nó báo hiệu rằng năm nay tôi sẽ còn gặp nhiều khó khăn nữa trong việc nghiên cứu cùng hành nghề tướng số tôi cũng xin kể tiếp ở đây, cho đúng với đầu đề của bài báo hai lá số thọ yểu lưng chừng (43 tuổi và 52 tuổi) nhưng năm tháng và cả ngày giờ “ra đi” như đã được ấn định trước rồi, để quí vị tiện đường giải đáp điều thắc mắc đã được nêu ở trên.
MỘT ÔNG CHỈ ĐƯỢC 59 TUỔI
Trường hợp thứ nhất là một ông bạn sống được 52 tuổi có bằng cấp cao có địa vị hơn nhưng đã chết vì bệnh khi còn tại chức. Ông bạn này tuổi Canh Thân (1920) tháng 3 ngày 24 giờ Dậu.
– Mệnh đóng tại cung Mùi, có Thiên Phủ đắc địa đóng. “Phủ Tướng triều viên thực lộc vạn chúng” thật là đúng vì Ông bạn tuy là công chức Việt Nam mà ăn lương theo tiền ngoại quốc. Được như vậy là nhờ Mệnh giáp song Lộc (Hóa Lộc ở cung Ngọ, Lộc tồn ở cung Chấn, giáp Âm Dương đắc địa giáp Tả Phù và Hữu bật cùng giáp Tam Thai Bát Tọa, và Bản thân ở cung Sửu lại được cách tốt là có Xương Khúc Sửu, Mùi và giáp Long Phượng.
Song le có lẽ chỉ vì nhiếu “giáp” như thế (nên ít chính và chiếu) nên Ông thường chỉ là “phụ tá” là cố vấn cũng không được đại thọ chăng? Nhất là sự mệnh một của ông được giảng bằng cách xấu là:
– Thiên Phủ ngộ Triệt và Đà la.
– Mệnh và Thân có Hình Diêu Cô Quả, Hỏa Linh, Thiên Không, Kiếp Sát, Kình, Đà, Hỏa tọa chiếu cùng Tuần, Triệt đương đầu.
Cho nên, ông không qua được đại hạn 43-52 tuổi, và mất năm Tân Hợi, 1971 tiểu hạn lưu niên đi đến cung Thiên Di (mà trên lá số những việc tối ư quan trọng thường xảy ra khi lưu niên tiểu hạn đi đến Mệnh Thân và Thiên di) vào tháng 4 ngày 23 âm lịch. Tháng 4 này, trong năm Tân Hợi của đương số, đóng ở cung Quan lộc, trùng với đại hạn 43-52 tuổi và ngày 23 đóng tại cung Phúc có Thiên không ở Dậu cung tức là Ngày và Tháng mất trùng với những cung quan trọng, hợp chiếu với Mệnh, Thân.
Còn về giờ ra đi, tôi xin quí vị đừng quan tâm nhiều trong lá số này vì mất trên giường bệnh, rất có thể nhờ những môn thuốc tốt nên đã lùi được ít giờ chăng?
Nhưng, đến lá số của ông bạn sau đây, ngộ nạn xe cộ thì giây phút ra đi quả đã được ấn định từ lâu rồi!
LÁ SỐ CHẾT VÌ TAI NẠN
Đó là lá số Dương nam tuổi Mậu Thìn tháng 11 ngày 29 giờ Dần.
Mệnh đóng tại cung Tuất với Thiên Đồng tọa thủ. Người tuổi Thìn, Tuất mà Mệnh lại đóng ở cung Thiên la và Địa võng nhất là khi Mệnh lại gặp nhiều cách xấu thì dễ sợ lắm. Lá số này Mệnh bị Tuần án ngữ, cung Phúc có Triệt vì:
1) Mệnh có Thiên Hư (Hư sinh nên lúc bé lên 3 tuổi bị bệnh ở chân, và khi thành hôn lần đầu gặp chuyện lao đao, đổ vỡ.
2) Mã đầu đới kiếm (Kình Dương cư Ngọ, chiếu Mệnh, cùng với Hỏa Linh, Thiên Mã, có Khốc, Kỵ, Điếu, Hao lại hợp chiếu với Hỏa Linh và Mệnh, Thân là rất xấu.
Nhưng vì chiến Mã ở đây không ngộ Triệt, cho nên cái kỳ diệu của Khoa Tử vi là đã khiến đương số không ngộ nạn ở nơi đất khách quê người mà lại mất thật oan uổng khi tạm trở về nước để mưu thêm công danh.
3) Cung Thiên Di xấu (mà cung này xấu theo sách “Tự điển Tử vi” của ông Đắc Lộc trang 46) làm hại rất nhiều cho cung Bản mệnh. Vì thế thay vì ở luôn ngoại quốc, và cuối năm Canh Tuất 1970, ông tuổi Mậu Thìn đã trở lại quê nhà đã ngộ nạn xe taxi vào đúng 12 giờ trưa ngày 30 tháng Chạp năm Canh Tuất ấy là năm ông 43 tuổi, đại hạn đóng ở cung Quan lộc (cũng như lá số Canh Thân ở trên) và tiểu hạn cũng đóng ở cung Thiên Di có Đà, Hỏa, Thái Tuế và Thiên La. Đến đây, ngoài cái xấu căn bản là Mệnh có Thiên Đồng Tuất cung bị phản bối nó làm cho ba lý do xấu nêu trên trở nên quá nặng nề, tôi xin bàn về tháng, ngày, và giờ ra đi của lá số.
– Tháng chạp năm Canh Tuất đóng tại cung Mùi có Liêm Sát ngộ Thiên Hình, Tuần Triệt, Khôi Việt và Diệu Không.
– Ngày 30 tết nhằm vào cung Phúc đức có Bạch hổ ngộ Kình Tang.
– Mà giờ Ngọ, đối xung của ngày 30 (cung Phúc đức cung tí) lại ở chính cung Ngọ có Kình Dương.
Để quí vị độc giả nhận thấy một cách rõ ràng, và thấy rằng tôi viết ra đây những kinh nghiệm sống, tôi xin hương hồn ông bạn đồng nghiệp đã quá vãng được phép nêu tên ông ra đây; đây là trường hợp của giáo sư Tô Văn Thiện, có bằng M.S tại Hoa Kỳ. Cái chết của ông đã làm cho các đồng nghiệp rất lấy làm buồn và ông đã để lại một nỗi tiếc thương vô hạn cho biết bao thanh niên đã từng theo học ông về môn Lý Hóa tại trường Trung học Võ Trường Toản!
KHHB số 41