THỜI TIÊN TẦN: SỰ THAI NGHÉN CỦA THUẬT TRẠCH CÁT
Cơ sở hoặc tiền đề của Hoàng lịch là Lịch thư. Trong Lịch thư, có thể dựa vào những nhân tố theo quy luật nhất định ghi chú trên các loại thần sát, can chi, Ngũ hành, Thập nhị trực, Nhị thập bát tú, đồng thời cũng dựa vào đó để suy đoán ra những điều lành dữ nên làm, nên tránh trong các ngày, các tháng, tiện cho người đời chọn ngày tiến hành công việc,… Từ ý nghĩa đó, Lịch thư đã trở thành Hoàng lịch. Nội dung ghi chú lịch trong Lịch thư là từ ít đến nhiều. Cách thức ghi chú của Lịch thư ban đầu là các thần sát rải rác không có quy luật, sau tiến đến hình thành hệ thống. Cuối cùng là ghi chú rõ ràng những điều nên làm, nên tránh trong từng năm, tháng, ngày. Đó cũng là quá trình hình thành thuật Trạch cát hoặc Trạch cát Hoàng lịch, nhân đó chỉ cần khảo sát sự biến hóa phát triển của nội dung ghi chú lịch trong Lịch thư, đồng thời phụ thêm một sô tư liệu tương quan của nó là lý giải được thực tế lịch sử ra đời và phát triển; của thuật trạch cát.
Ô ngày và tháng hiện nay, chính là kiểu Lịch thư đơn giản nhất.
Mục đích làm Lịch thư là để tiện lợi hơn trong sản xuất và chính sự, cũng như cho cuộc sống.
Lịch thư cổ nhất Trung Quốc là cuốn “Hạ tiểu chính”. Theo truyền thuyết, nó là Lịch thư triều Hạ. Nó căn cứ thứ tự 12 tháng ghi tinh tượng, khí tượng, hiện tượng tính chu kỳ của sinh vật cùng công việc nhà nông, việc chính sự. Trong đó dù không có những nội dung giống như ghi chú trong lịch trạch cát sau này, song căn cứ vào những tinh tượng mà nó ghi trong đó như: Bắc đẩu, Đại hỏa, Nam môn, Chức nữ, sao Mão,… có thể biết nó là một sách lịch ghi những điều cần thiết trong đời sống và hoạt động sản xuất của con người.
Lịch thư đời Thương, hiện chưa tìm được bản ghi chép đầy đủ. Qua phát hiện chỉ là bảng Can Chi được khắc vào những mảnh xương để tiện việc kiểm tra số ngày, các nhà giáp cốt học gọi là “cốt giản”. Biểu can chi đó có 2 loại: Một loại là “Tam tuần thức”, một loại “Lục tuần thức”. Tuy có thể hiểu khái quát lịch đời Thương qua hàng loạt mảnh xương được khai quật, nhưng do còn thiếu những ghi chép trực tiếp và hoàn chỉnh của lịch thư thời đó, cho nên chưa hiểu được lịch đời Thương có nội dung giông lịch trạch cát về sau hay không.
Lịch thư của các thời Tây Chu, Xuân Thu Chiến quốc cũng trống trơn. Song, “việc bên ngoài dùng Cương nhật, việc bên trong dùng Nhu nhật” đã trở thành thói quen của người thời bây giờ khi tiến hành một công việc gì, dù “cương nhật” hay “nhu nhật” dùng bói chứ không phải thông qua “lựa chọn”. Trong sách “Mạnh Tử chú” của Triệu Kỳ có thuyết “Thiên thời là Cô Hư, Vượng, Tướng”. Như thế, thời Chiến Quốc đã dùng Cô, Hư và Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tử của Ngũ hành để suy luận ngày lành dữ. Trong ghi chép của Ngũ Tử Tư nước Ngô, Phạm Lãi, Văn Chủng nước Việt đều lấy ngày giờ can chi sinh khắc để xem và đã có nhiều điều ứng nghiệm rất kỳ lạ. Việt vương Câu Tiễn từ Ngô về nước cũng chọn giờ Kỷ Tỵ của tháng 12 trong khi chỉ còn hơn 1 dặm đường, về nước còn không quên chọn ngày giờ tốt, huống chi những việc công tư lớn khác? Do đó có thể thấy, việc chọn ngày tốt để tiến hành công việc đã rất thịnh hành ở thời Chiến Quốc.
Đó là lịch sử thời kỳ đầu của thuật trạch cát.
(Theo sách Bí ẩn về chọn ngày của Nhà xuất bản Hà Nội)