Bàn về Nhân tướng học, trước hết phải nói đến Ngũ hình (Ngũ hình là cách gọi trong Nhân tướng học, trong Mệnh lý học, người ta gọi là Ngũ hành). Để đoán biết được vận mệnh của con người, trước hết người ta không xét đến Ngũ quan hay câu nệ về các nốt, vân, tướng tay hay tướng chân. Việc này cũng giống như khi người ta đánh giá một cỗ máy, trước hết phải đánh giá về chất liệu tạo nên cỗ máy đó, chất liệu dùng để chế tạo cỗ máy thuộc loại chất lượng cao hay thấp, sau đó sẽ xét đến kết cấu bên trong và ngoại hình của cỗ máy, xem nó đã được thiết kế thế nào, cuối cùng là cỗ máy đó sẽ được vận hành ra sao, có ưu điểm gì, mã lực, công suất là bao nhiêu. Tướng pháp Ngũ hình là cơ sở để nhận biết 5 bộ phận trên cơ thể được cấu tạo ra sao, ngoài ra, căn cứ vào các xương trên cơ thể người, chúng ta có thể dự đoán được gương mặt chủ nhân và sắc da trên toàn cơ thể người đó. Ví dụ, người hình Mộc thường vừa gầy vừa cao, màu da thường xanh bóng; người hình Hỏa thường lộ xương, xương nhọn, màu da hồng hào; người hình Thổ thường đầy đặn, sắc da hơi vàng; người hình Kim thường vuông vức, màu da trắng trẻo; người hình Thủy thường béo tròn, màu da đen bóng, cổ nhân dạy rằng: “Được một hình trong Ngũ hình, không quý cũng phú, được một hình trong Ngũ hình, không phú thì cũng thọ”.
Ngũ hình tướng pháp ra đời khá sớm, nó được coi như sự khỏi nguồn về hình thái “linh khu” (các huyệt) trong y học. Ngũ hình có ảnh hưởng khá lớn đối với Nhân tướng học cũng vì lẽ đó. Tuy nhiên, những người chỉ thuộc một hình (người có tướng lý vận mệnh rõ) trong Ngũ hình là khá ít gặp, mà chủ yếu là những người kiêm hình (có đặc điểm của nhiều hình khác nhau), do đó rất khó nhận biết và dự đoán được vận mệnh của những chủ nhân, bởi lẽ đời thường “sai một ly đi một dặm”! Theo tướng số học phương Tây, người ta xét tướng pháp trên các góc độ như: dinh dưỡng, hệ thống cơ xương, tính cách. So với Nhân tướng học phương Đông, cách xem tướng như trên là khá nông cạn, bởi vì tướng lý học phương Tây thường được xét trên cơ sở sinh lý học và bệnh lý học. Còn Ngũ hình dựa trên cơ sở các lập luận về vũ trụ, về hình thức, mặc dù nó được chia thành ngoại hình, tình hình sức khỏe, tâm tính của con người, nhưng ngoài ra, nó còn là cơ sở để dự đoán những thuận lợi khó khăn trong cuộc sống cũng như trong hôn nhân của con người. Đặc biệt, dựa trên cơ sở hợp, khắc theo quy luật của những người kiêm cục và kiêm nhiều cục, chúng ta có thể xét tướng số vận mệnh của con người một cách cụ thể hơn. Dưới đây, chúng tôi xin khái quát vài nét về từng hình trong Ngũ hình (các hình trong Ngũ hình thường liên quan đến di truyền của cha, các cục thường liên quan đến di truyền của mẹ).
PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ NGƯỜI HÌNH MỘC
Hình Mộc chính cục:
Người hình Mộc có Ngũ bộ to, dài cân đối, thân hình gầy nhưng đĩnh đạc, dáng người cao, trung trực, eo gầy và tròn, môi đỏ, vân môi nhỏ, cổ lộ rõ xương hầu, xương mũi lộ, hơi gẫy, đầu có xương nhô, trán dựng, mắt và lông mày thanh tú, có ria ở nhân trung (kỵ ria lan vào miệng). Người hình Mộc thường có tinh thần sung sức. Bàn tay của người hình Mộc thường dài và gầy, bàn tay có nhiều vân thường là người hình Mộc chính cục. Mộc chính cục thứ nhất tương đối nhỏ và ngắn, kém Giáp Mộc. Hình Giáp Mộc không kỵ kiểu đầu trọc, nhưng kỵ kiểu đầu hói hoặc bị rụng từng khoảng tóc. Người hình Mộc nếu bị hói dễ đoản thọ, hoặc nếu không cũng phải chịu cảnh nghèo hèn. Người hình Mộc kỵ chân tóc quá cao (Ghi chú: Người hình Kim, hình Thủy và hình Thổ chân tóc càng cao càng tốt). Người hình Giáp Mộc không kỵ Huyền châm nhưng những người có Huyền châm thường không những khó tránh được gian lao thời trẻ mà về già họ cũng thường phải chịu cảnh long đong lận đận. Phụ nữ có Huyền châm thường bị tổn thai hoặc bất lợi cho chồng, dễ phải chịu cảnh cô quả. Người hình Ất Mộc kỵ đầu trọc, lộ xương Huyền châm. Tất cả những người hình Mộc thường hợp với màu thiên thanh và màu đen, kỵ màu vàng.
Đặc trưng quan trọng nhất của người hình Mộc là thon dài, ngay thẳng nên người hình Mộc không nên sợ gầy yêu. Người hình Mộc thì tính cách phải hội tụ đủ điều kiện Ngũ trường, khí sắc không tạp, tinh thần không loạn, cử chỉ ôn hòa, điềm đạm, bước đi thanh thản. Người hội tụ được những đặc điểm này là người có nhân có đức. Người hình Mộc chính cục thì hình hài xuôi thẳng, mắt sáng và có tụ thần, râu và tóc thanh nhã, môi hồng, ngón tay thon dài chỉ tay nhỏ và rõ, lưng thon hẹp, da mịn, âm thanh cao và trong trẻo. Nếu chân tay hoặc thân hình nghiêng lệch, da khô, thịt bệu hoặc lộ xương, gân tạp loạn là tướng xấu. Xương thô, người béo và lùn, lưng cong là phá cách (căn cứ vào ngoại hình của người hình Mộc, có thể chia hình Mộc thành Kiên Mộc, Tiết Mộc, Nhu Mộc, Khúc Mộc.
Hình Mộc kiêm Hỏa cục:
Người hình Mộc kiêm Hỏa thuộc Ngũ hành tương sinh. Những chủ nhân dù dạng Ất Mộc hay Giáp Mộc thì đều coi tướng lý đỉnh đầu nhọn, tai cao, sắc khí hồng hào là người thông minh trí tuệ, sự nghiệp sớm thành, ắt được phú quý. Tuy nhiên, họ thường là người có tính cách hiếu động, hay nôn nóng. Người hình Mộc nói chung không được nghiêng về hình Hỏa, cục Hỏa, như: Ngũ quan lộ và nhọn, sắc tối sẫm, ánh nhìn mơ hồ, nói nhanh (tất cả những nhân tố kể trên đều được coi là nghiêng về Hỏa), không thể hợp cách được. Những người như vậy tính tình thường hung bạo, lúc nhỏ gặp nhiều sóng gió, xung khắc người thân, sự nghiệp khó thành, nhiều bệnh tật, không nghèo cũng hèn.
Hình Mộc kiêm Thổ cục:
Hình Mộc kiêm Thổ cục thuộc Ngũ hành tương sinh. Những chủ nhân thường có gương mặt dài, ánh nhìn sâu, có thần thái, mũi to, xương má nhô cao, lưng và eo thẳng, tròn. Tuýp người hình Giáp Mộc kết hợp với khí sắc hồng hào, bóng bẩy chủ về phú quý. Người hình Mộc kỵ quá nghiêng về Thổ. Những người có xương to thịt bắp, ánh nhìn không có thần thái là không hợp cách. Những người như vậy sự nghiệp khó thành, bởi vì Mộc không thể chế ngự được Thổ.
Hình Mộc kiêm Kim cục:
Người hình Mộc kiêm Kim cục thuộc Ngũ hành tương khắc tương hóa. Những chủ nhân sắc mặt trắng, khuôn mặt vuông vức. Nếu là Giáp Mộc, Mộc là do Kim làm gẫy, từ thời trung niên trở đi mới được thành công. Chủ nhân nếu là công chức, nếu không quý cũng sẽ có quyền. Hình Mộc mà không kiêm Kim thì dù quý cũng thiếu uy quyền. Nếu sắc mặt quá trắng, trán vuông, xương ngang, mũi lộ xương, thân hình nhiều thịt, mắt to không có thần thái, Ngũ quan không hài hòa thì thuộc Ngũ hành tương khắc không hóa cách, những người như vậy thường mưu sự khó thành, đến già cũng không được thành công. Người hình Ất Mộc mà kiêm Kim quá nhiều, khí sắc trắng lạnh thì cả đời khó phát đạt, xung khắc người thân, gặp nhiều khó khăn trắc trở và khó thọ cao.
Hình Mộc kiêm Thủy cục:
Người hình Mộc kiêm Thủy cục thuộc Ngũ hành tương sinh, tương hóa. Những người thuộc hình này mắt thường to, ánh nhìn có thần thái, mũi cao thẳng, tai sáng, môi dày, khuôn mặt trái xoan, lông mày to rậm, dung mạo đẹp đẽ khác người, thân hình thẳng, khí sắc hơi xanh,… tất cả những yếu tố kể trên được liệt vào loại Mộc Thủy tương sinh, dù là hình Ất Mộc hay Giáp Mộc đều được phú quý (thường quý về nghiệp văn). Những người hình Mộc kiêm Thủy quá nhiều, vẫn được xếp vào loại tương sinh mà không tương hóa. Những chủ nhân dáng người cao to, Ngũ quan bình thường không có gì khác người, thần khí trì động, nước da đen xạm. Họ là những người có tính khí không rộng lượng, trong người thường có bệnh tật, trong cuộc sống ít khi gặp được vận may. Trong sự nghiệp họ hiếm khi có được thành công nếu có thường là những việc nhỏ, ít ai biết đến. Ngoài ra, những ngươi thuộc hình Mộc kiêm Thủy cục quá nhiều thường xung khắc người thân, gặp nhiều tai ương trắc trở, về già phải sống cuộc đời đơn độc. Tướng nữ giới thuộc hình Mộc, Thủy cọc được coi là “Phượng liễm – mặt phượng” (Chú giải: Khuôn mặt vuông, quý của nam giới là Kim hình, còn khuôn mặt dài, quý của nữ giới là Phượng liễm), những người phụ nữ có tướng này gọi là “Vượng phu hưng gia, thường được kết hôn với những người phú quý.
(Tài liệu sưu tầm)