Đẩu – Số luận
Vũ trụ là sự tổng hòa các dạng tồn tại vật chất, có thể phân có thể hợp, có đoàn tụ tất có phân ly, có “tích” tất có “phân”. Đây là điểm mấu chốt của phương pháp luận.
Nghiên cứu về Đẩu và Số, nhất thiết phải tham khảo Dịch đồ, theo phương pháp dùng hào âm dương. Long đồ tự – Long đồ tam biến do ngài Trần Đoàn sáng chế, số “0” được gọi là số “Linh kỳ”, ngài Trần Đoàn theo nguyên lý Vô sinh Hữu viết “Vô cực sinh Thái cực”, người đời sau, ngài Chu Hi sửa lại, thay chữ sinh, viết “Vô cực mà Thái cực”. Tư tưởng lập thuyết của ngài Trần Đoàn “Vô cực sinh Thái cực” hay từ không sinh có“, chính là vũ trụ thời gian vô hạn, dựa vào nguyên lý của Dịch “Dịch hữu thái cực, thị phân lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”, coi “0” và “1”, “hư” và “thực”, “tụ” và “tán”, “tích” và “phân”, “chính” và “phụ”, … cấu thành cặp … Số 0 có thể phân thành “chính” và “phụ”, có nghĩa là “chính 0” và “phụ 0” – trong đó “tích” là “chính”, “phân” là “phụ”. Nội hàm các trị số nhỏ hơn 1, sự biến hóa của chính – phụ lấy “0 và 5” của hệ thập phân làm danh giới. Trong đó, số có trị số lớn hơn “0 và 5” là “chính” của 0, số có trị số nhỏ hơn “0 và 5” là “phụ” của 0. Dùng số “0” của hệ thập phân thì “tượng nhuận” là giải pháp tối ưu.
Chẵn và lẻ, nhỏ và lớn là những cặp tương ứng và đối nhau, số 0 tức là số lẻ, số 1 có trị số thực của nó đã là số chẵn, nhưng khái niệm về số chẵn này, vẫn biến hóa vô cùng, hơn nữa, nó cùng với 0 tương ứng chuyển hóa tùy lúc, tùy thời. 1 và 0, cùng các loại danh số kết hợp với nhau, biểu thị sự khác biệt về số lượng và chất lượng của vạn sự vạn vật, biến hóa vô cùng, không có điểm dừng.
Cấu tạo Long Đồ Tự của ngài Trần Đoàn cho “Khôn” với “Phục” đối nhau ở chính Bắc, nó là do thứ tự từ quẻ Phục tới Càn, sau đó chuyển hướng từ Cấu tới Khôn, tức là chính 0 với phụ 0 đối nhau, biểu thị rõ thời điểm Đông chí âm lạnh đạt đến đỉnh điểm, sau đó chuyển hóa theo hướng “Nhất nhật sinh”, đây mới là kết tinh của Dịch học. Chính của “0” và Phụ của “0” còn có thể đồng thời biểu hiện, đó là khi lấy đen biểu thị cho Âm, trắng biểu thị cho Dương, theo thói quen của người xưa, vẽ thành “Âm Dương ngư”, đây là tiền thân của Thái Cực đồ vậy.
“Bát tiết định 8 phương”, theo thứ tự Địa Sơn Thủy Phong Lôi Hỏa Trạch Thiên, ở đây 8 tiết khí này đều là điểm giao tiếp của Thiên và Địa với nhau, được gọi là điểm”Quan khẩu”(điểm chuyển tiếp). Dựa theo nguyên lý âm dương đối ứng, Đông chí đối Hạ chí, Lập xuân đối Lập thu, Xuân phân đối Thu phân, Lập hạ đối Lập đông, 3 hào trong và 3 hào ngoài của 8 đôi, theo thuyết”Nội sinh Ngoại thành”, cũng căn cứ vào thuyết Thiên đối Địa, Sơn đối Trạch, Thủy đối Hỏa, Phong đối Lôi.
Hình tròn 720 quẻ, 720 quẻ lớn gấp 5 lần 144 quẻ (ứng Khôn sách 144), mật độ của vòng tròn này lấy “một ngày một đêm” phối với 1 độ. Xuất phát điểm của nó dụng nguyên tắc “Nhất nhật lưỡng quái” (hai quẻ phối một ngày), tương ứng Ngày là dương Đêm là âm.
Nguyên tắc tính bắt đầu từ 0 giờ lúc nửa đêm, tức là giờ Chính Tý, hai đầu là đêm, khoảng giữa là ban ngày, đúng với nguyên tắc định danh “dương kỳ âm ngẫu”.
Ngày thứ nhất qua Đông chí, đặt 2 quẻ 0 và 1, đây chính là “Nhất âm nhất dương chi vị đạo”. Dựa theo mức độ khuếch tán tỏa sáng trên mặt đất mà nói, lại đúng là”thiên tam địa nhị”. Bởi lẽ, ban ngày có mặt trời tỏa sáng, trái đất nhận ánh sáng. Mỗi sớm mai”thiên số dĩ tam kiêm nhị”, trước khi mặt trời lên tới đường chân trời, một số tia khúc xạ trắc diện của ánh mặt trời, đã chiếu sáng lên mặt đất, đây là lúc bình minh. Buổi chiều “Địa số dĩ nhị kiêm tam”, sau khi mặt trời đã lặn xuống đường chân trời, những khúc xạ trắc diện của mặt trời vẫn tỏa sáng xuống mặt đất, đây là lúc hoàng hôn. Phía trước một nhóm là”tam kỳ nhị ngẫu”, phía sau là một nhóm “tam ngẫu nhị kỳ”. Cho nên, ngày sáng đêm tối không thể căn cứ vào sự lên xuống của mặt trời làm chuẩn. Nhưng, sự lên xuống của mặt trời, tức có hoàng hôn và có bình minh, luôn luôn định ra tỷ lệ “dương cửu âm lục”, “thiên tam địa nhị”, đây lấy 5 ngày ứng với 5 độ chu kỳ hình tròn, 5 ngày ứng 5 độ, định lệ thành Cục (Ngũ nhật vi cục), nhất thiết tuân thủ phối ứng với sự vận động biến hóa của 5 hành, như ngày Thủy, ngày Hỏa, ngày Mộc, ngày Kim, ngày Thổ. Được như vậy, thì không thể chê trách hậu nhân ngày hôm nay toán sai, khi định ngôi vị cho sao Tử vi.
Dịch cấu tạo gồm 384 hào, lấy 384 hào làm nguyên tắc để noi theo. Sự khởi nguyên, bắt đầu từ hai chữ hào Sơ của Càn Khôn, đó là Tiềm潛 và Lý履.
1. Khởi pháp:
CÀN
Hào Thượng 11 23 35 47 59
Hào ngũ 9 21 33 45 57
Hào tứ 7 19 31 43 55
Hào tam 5 17 29 41 53
Hào nhị 3 15 27 39 51
Hào sơ 1 13 25 37 49
…………………………………………………………………………..
36108180252324
KHÔN
Hào thượng 12 24 36 48 60(Giáp Tý)
Hào ngũ 10 22 34 46 58
Hào tứ 8 20 32 44 56
Hào tam 6 18 30 42 54
Hào nhị 4 16 28 40 52
Hào sơ 2 14 26 38 50
……………………………………………………………………….
42114186258330
2. Định pháp số Đại diễn:
– Ngày thứ nhất 0 1 2 3
– Ngày thứ hai 4 5 6 7
– Ngày thứ ba 8 9 10 11
– Ngàythứ tư 12 13 14 15
– Ngày thứ năm 16 17 18 19 (số tính nhuận)
……………………………..
40455055
3. Thông pháp Tuần số
– Ngày thứ nhất 0 1 2 3
– Ngày thứ hai 4 5 6 7
– Ngày thứ ba 8 9 10 11
– Ngàythứ tư 12 13 14 15
– Ngày thứ năm 16 17 18 19
– Ngày thứ sáu 20 21 22 23
– Ngày thứ bảy 24 25 26 27
– Ngày thứ tám 28 29 30 31
– Ngày thứ chín 32 33 34 35
– Ngày thứ mười 36 37 38 39 (luật lữ 78 / 2)
…………………………………..
180190200210
4. Toán pháp:
– Ngày thứ nhất và ngày thứ sáu, phối 1 – 6 Hà đồ, định nguyên tắc “2 đích 0 tự phương”, số 2 định danh số “cá vị” dụng Lạc thư.
– Ngày thứ tư và ngày thứ chín, phối 4 – 9 Hà đồ, định Tam biến Cửu dụng Lạc thư.
– Ngày thứ năm và ngày thứ 10, một 5 một 10 thuận tự Thiên trung, triển khai phối Đẩu với Số.
Người am tường đã rõ ý của nó, có thể tự suy diễn mối quan hệ giữa Đẩu và Số vậy.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)