Mộc:
Một trong ngũ hành. Chủ phương đông, ứng với mùa xuân. Tam mệnh thông hội quyển 1 – Luận ngũ hành sinh khắc viết: “ Nói đến mộc, là chỉ sự tiếp xúc. Khí dương động, nhô khỏi đất mà sinh vậy. Thủy chảy về phía đông, để sinh mộc vậy. Mộc vươn lên mà trùm xuống, là chất của tự nhiên vậy. Luận ngũ hành viết : “Mộc thích gọt tỉa, sinh phù, trợ hỏa, thổ bồi, đất đai màu mỡ, mọc nhiều thành rừng. Kỵ gãy đổ, rơi rụng, không vong, dao động, tử tuyệt, khô héo, tự cháy, mục rữa” .
Hỏa:
Một trong ngũ hành. Chủ phương nam, ứng với mùa hạ. Tam mệnh thông hội quyển 1, Luận ngũ hành sinh khắc viết: “ Nói đến Hỏa, là hóa, là hủy. Dương ở trên, âm ở dưới, phá hủy mạnh mà thay đổi vạn vật. Cưa mộc lấy hỏa, do mộc sinh vậy. Hỏa cháy không có chính thể, thể vốn là của mộc vậy. Xuất hiện để ứng với vật, tàn thì lại nhập vào, là khí của tự nhiên vậy”. Luận ngũ hành viết: “Hỏa thích nóng, sinh trợ, không vong, bốc lên, cao xa, chiếu thổ, vượt thủy. Kỵ trói buộc, nôn nóng, lạnh lẽo, thủy thịnh, mộc khô, pha tạp, mộc nát, mộc đọng nước”.
Thồ:
Một trong ngũ hành. Chủ trung tâm, kiêm tây nam, ứng với mùa trưởng hạ. Tam mệnh thông hội quyển 1, Luận ngũ hành sinh khắc viết: “Nói đến thổ, là xuất ra sinh ra vạn vật, thổ đưa vật sống ra, thu vật chết về, là nhà của vạn vật, nên thịnh vào cuối mùa hạ. Do hỏa sinh vậy”. Luận ngũ hành viết: “Thổ ưa sinh phù, dày chắc, sơ thông, sinh kim. Ky sụt lở, mộc thịnh, thủy nhiều, không vong, khí hàn, kim thịnh, trống rỗng”.
Kim:
Một trong ngũ hành. Chủ phương tây, ứng với mùa thu. Tam mệnh thông hội quyển 1, Luận ngũ hành sinh khắc viết: “Nói đến kim, là nghiêm cấm. Khí âm bắt đầu ngăn cấm, buộc vạn vật thu lại, gạt đất tìm kim, do thổ sinh ra vậỵ, Sinh từ thổ mà rời khỏi thổ, là hình của tự nhiên vậy”. Luận ngũ hành viết: “Kim ưa mộc tượng, thổ sinh, không vong, tôi luyện. Kỵ mộc vượng, hỏa vượng, hỏa ở đất mộ bại, thủy hàn, kim tiêu, hình sát khắc hại”.
Thủy:
Một trong ngũ hành. Chủ phương bắc, ứng với mùa đông. Tam mệnh thông hội quyển 1, Luận ngũ hành sinh khắc viết: “Nói đến thủy, là nhuận vậy. Khí âm nhu nhuận, nuôi dưỡng vạn vật. Thủy chảy từ tây sang đông, do kim sinh vậy. Thủy chảy uốn lượn xuống chỗ thấp, là tính của tự nhiên vậy”. Luận ngũ hành viết: “Thủy ưa trong sạch, xa rộng, tương sinh, vượt hỏa, tưới nhuần, tây bắc. Kỵ không vong, tràn lan khắc hại, mộc nhiều, khí hàn, tử tuyệt, thổ khô cằn”.
Ngũ tượng:
1) Chỉ năm loại hiện tượng tự nhiên do thay đổi âm dương sinh ra. Một là Đại âm, khí dương phục ờ dưới, về mùa là mùa đông. Hai là Đại dương, khí dương cực thịnh mà nuôi dưỡng vạn vật, mùa là mùa hạ. Ba là Thiếu âm, âm dương chuyển hóa, khí âm dần thịnh, về mùa là mùa thu. Bốn là Thiếu dương, âm dương chuyển hóa, khí dương dần thịnh, mùa là xuân. Năm là Trung tâm, âm dương điều hòa, ở giữa bốn phương. Ngũ tượng thực ra là năm loại hiện tượng do âm dương thay đổi mà sinh ra, phối hợp với ngũ hành, Đại âm là thủy, Đại dương là hỏa, Thiếu âm là kim, Thiếu dương là mộc, Trung tâm là thổ,
2) Chỉ tượng của năm phép đo lường trong các ngành nghề là quyền, hành, củ, quy, thằng. Quyền là tượng của Thái âm. Thái âm nằm ở phương bắc, khí dương phục ở dưới. Ngũ sự là mưu, ngũ thường là trí, mưu trí ắt phải nặng. Quyền là công cụ đo sự nặng nhẹ, nên quyền là tượng của Thái âm. Hành là tượng của Thái dương. Thái dương nằm ở phương nam, khí dương nuôi dưỡng vạn vật, ngũ sự là thị, ngũ thường là lễ, lễ là tề, tề nghĩa là cân bằng. Hành là công cụ cân bằng sự vật, nên hành là tượng của Thái dương. Củ là tượng của Thiếu ấm. Thiếu âm nằm ở phương tây, khí âm che vạn vật, mùa là thu, ngũ sự là ngôn, ngũ thường là nghĩa; Nghĩa thì thành thực, thành thực thì vuông vức. Củ là công cụ để vẽ hình vuông, nên củ là tượng của Thiếu âm. Quy là tượng của Thiếu dương. Thiếu dương sinh ở phương đông, khí dương làm động sự vật, mùa là xuân, ngũ sự là mạo, ngũ thường là nhãn; nhân thì sinh, mà sinh thì tròn. Quy là công cụ để vẽ hình tròn, nên Quy là tượng của Thiếu dương. Thằng là tượng của Trung tâm, đường kinh vĩ xuyên suốt mà ngay thẳng, ngũ sự là tư (tư duy) ngũ thường là tín, tín thì thành thực mà thẳng thắn, nên Thằng là tượng của Trung tâm.
Địa tượng:
Cổ nhân cho rằng sự thay đổi của vạn vật trên mặt đất tương thông với nhân sự, có thể qua đó dự đoán họa phúc của nhân sự. Ngũ hành là tượng của ngũ sự. Ngũ hành thuận, ắt biểu thị ngũ sự cử (được cử hành), ngũ thường hành (được thực hành); ngu hành nghịch, thì trong giới tự nhiên xuất hiện vô số hiện tượng quái dị, chứng tỏ ngũ sự bị phế bỏ, ngũ thường bị ngừng ngăn. Thổ là tượng của vua, kim lá tượng của bầy tôi, mộc là tượng của dân, hỏa là tượng của sự, thủy là tượng của vật.
Thiên tượng:
Cổ nhân cho rằng sự thay đổi của mặt trời, mặt trăng, tinh tú tượng trưng cho nhân sự, qua đó dự báo hoạ phúc. Mặt trời là tinh của dương, tượng trưng cho vua. Mặt trăng là tinh của âm, tượng trưng cho bầy tôi. Ngũ tinh là tinh của ngũ hành, tượng trưng cho sự được mất của ngũ sự. Sử ký, Thiên quan thư viết: “Các tinh tú, thể sinh ở đất, tinh thành trên trời. Ở chốn hoang dã, tượng trưng cho vật, trong triều đình tượng trưng cho quan lại, ở người tượng trưng cho sự việc”.
Lục khí:
Khí ngũ hành và khí trời, gọi chung là lục khí. Khí ngũ hành tức thủy, mộc, kim, hoả, thổ, là khí đất, đối với trời mà nói, thì là khí âm. Trời là, khí dương, là tượng chí tôn. Khí trời bị tổn thương thì mặt trời, mặt trăng và tinh tú vận hành hỗn loạn. Ở nhân sự, ắt vua yếu bầy tôi mạnh, gian thần đoạt ngôi giết vua. Đối với khí trời, khí ngũ hành là âm, bản thân nó lại chia ra âm dương, mộc, hỏa là dương, kim, thủy là âm, thổ sinh vạn vật, là âm dương hòa hợp. Một thuyết khác gọi âm, dương, phong, vũ, hối, minh là lục khí. Sử ký, Luật lịch chí viết: “Trời sinh lục khí” và chú giải “Lục khí, tức âm, dương, gió, mưa, tối, sáng vậy”.
(Theo Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa)