Tác giả: Nguyễn Trọng Tuệ – Chủ tịch CLB phong thủy Thăng Long
Vì có một số bạn thắc mắc về cái sự Luận Ngũ hành trong Tử vi. Có người thì cho rằng Ngũ hành là quan trọng nhất, rồi từ đó mỗi khi luận tử vi là nhất nhất cái gì cũng mang Ngũ hành sinh khắc chế hóa ra mà luận. Lại có người cho rằng Ngũ hành không có vai trò gì mấy trong khi luận Tử vi, rồi cứ thế “khai trừ” ra khỏi cách luận của mình, không quan tâm đến Ngũ hành Sinh khắc nữa, chỉ căn cứ vào “các sao” mà luận.
Để lật lại vấn đề này, tôi xin khơi gợi trước. Tôi xin dịch một đoạn BÌNH GIẢI CỐT TỦY PHÚ trong cuốn “Tử Vi Đẩu số Toàn Thư” của Tiến Sĩ La Hồng Tiên biên soạn vào đời nhà Thanh, đã được Vũ Tài Lục dịch ra một phần trong cuốn “Đẩu Số Toàn Thư”. Dịch đoạn văn này, cũng ý muốn để các bạn tham khảo xem các bậc Học giả ngày xưa nhìn nhận về Ngũ hành trong Tử Vi như thế nào.
Nguyên Văn chữ Hán:
太極星曜,乃群宿眾星之主,天門運限,即扶身助命之源,在天則運用無常,在人則命有格局。
先明格局,次看眾 星。或有同年同月同日同時而生,則有貧賤富貴壽夭之異。
或在惡限,積百萬之金銀。或在旺鄉,遭連年之困苦。禍福不可一途而惟,吉凶不可一例而斷。
要 知一世之榮枯,定看五行之宮位。立命可知貴賤,安身便曉根基。
榮者富貴也,枯者貧賤也,人生一命之中而見之也,此星吉佐星吉運限吉,則一生安然。 運限兇而流年遇殺劫,定災悔而言。五行即木火土金水也,如寅申巳亥則為四生,子午卯酉則為四敗,辰戌丑未則為四墓,四生臨官帝旺則為富貴,遇衰敗死墓絕則 為貧賤,墓庫胎養則為傭常。立命在五行生旺之宮則富,死絕之宮則貧,安身在生旺之宮則貴,死絕之宮則賤,此亦承上文而言之。
第一先看福 德,再三細考遷移,分對宮之體用,定三合之源流。命無正曜,夭折孤貧。吉有凶星,美玉瑕玷。既得根源堅固,須知合局相生,堅固則富貴延壽,相生則財官昭 著。
Phiên Âm:
Thái Cực tinh diệu, nãi quần túc chúng tinh chi chủ, Thiên môn vận hạn, tức phù Thân trợ Mệnh chi nguyên, tại Thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc Mệnh hữu cách cục.
Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.
Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị. Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân. Hoặc tại vượng hương, tao liên niên chi khốn khổ. Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy, cát hung bất khả nhất lệ nhi đoạn.
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị. Lập Mệnh khả tri quý tiện, an Thân tiện hiểu căn cơ.
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã, nhân sinh nhất Mệnh chi trung nhi kiến chi dã, thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên. Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ Sát Kiếp, định tai hối nhi ngôn.
Ngũ hành tức Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy dã, như Dần Thân Tị Hợi tắc vi tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu tắc vi tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi tắc vi tứ Mộ, tứ Sinh Lâm quan Đế vượng tắc vi phú quý, ngộ Suy Bại Tử Mộ Tuyệt tắc vi bần tiện, Mộ khố Thai Dưỡng tắc vi dong thường.
Lập Mệnh tại ngũ hành Sinh Vượng chi cung tắc phú, Tử Tuyệt chi cung tắc bần, an Thân tại Sinh Vượng chi cung tắc quý, Tử Tuyệt chi cung tắc tiện, thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.
Đệ nhất tiên khán Phúc đức, tái tam tế khảo Thiên di, phân đôi cung chi Thể Dụng, định tam hợp chi nguyên lưu. Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần. Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh, kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
Dịch Nghĩa :
Sao trên bầu trời, chủ là gồm đủ các tinh tú, xoay vần trên thiên môn, tức là cái nguồn gốc của sự Phù Thân, Trợ Mệnh. Ở trên trời thì vận chuyển không cùng, vào thân mệnh thì định thành cách cục. Cho nên trước phải xem rõ cách cục, rồi sau mới xét đến chúng tinh khác.
Cũng có sự nghi ngờ rằng có người cùng năm, cũng tháng, cùng ngày, cung giờ sinh, mà lại có bần tiện phú quý thọ yểu khác nhau. Hoặc có người gặp ác hạn mà vẫn kiếm được trăm vạn kim ngân, có người gặp hướng vượng, mà gặp khốn khó năm này qua năm khác. Họa phúc không thể một đường mà suy tính, cát hung ở trên đời, không thể một lời mà hết.
Muốn biết Vinh Khổ một đời người, nhất định phải xem ngũ hành của Cung Vị, Khi Lập Mệnh phải biết được sự quý tiện, An Thân ít nhất cũng phải biết được căn cơ. Vinh là phú quý, Khổ là bần tiện. Xem trong cái Mệnh của con người ta, nếu thấy chủ tinh tốt, tá tinh tốt, vận hạn cũng tốt, thì một đời an nhiên. Vận hạn xấu mà lưu niên gặp Sát – Kiếp, nhất định nói rằng gặp tai ách xấu.
Ngũ hành là Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy. Như Dần Thân Tỵ Hợi là Tứ Sinh, Tý Ngọ mão Dậu là Tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Mộ. Tứ Sinh mà gặp Lâm Quan – Đế Vượng là Phú Quý, gặp Suy-Bệnh-Tử-Mộ-Tuyệt là bần tiện, gặp Mộ-Thai-Dưỡng thường là kẻ làm mướn.
Lập mệnh mà tại cung có Ngũ hành sinh vượng thì giầu, cung Tử Tuyệt thì nghèo, An thân mà vào cung Ngũ hành sinh vượng thì Quý, Tử Tuyệt thì Tiện. Cái này là tiếp theo đoạn văn trên mà nói.
Trước tiên phải xem cung Phúc Đức, luôn luôn xem kỹ cung thiên di, Phân đối cung làm Thể-Dụng (Bản cung là Thể, đối cung là dụng), Định Tam hợp là Nguyên Lưu (khởi nguồn). Mệnh Vô chính diệu ắt là Yểu Chiết (không thọ), Cô Bần (nghèo, cô đơn). Tốt mà gặp hung tinh, thì như ngọc đẹp mà có vết.
Đã được Căn Nguyên kiên cố, nên biết phải có hợp cuộc tương sinh. Kiên cố thì Phú Quý Thọ bền, tương sinh thì Tài Quan sáng láng.
“Đối với vấn đề Âm Dương – Ngũ Hành trong Tử Vi, nó có mặt cả trong cách an sao và cả trong lời giải đoán. Ta nên xem xét trên nhiều khía cạnh.
– Đối với việc an sao: Âm Dương – Ngũ Hành một phần thể hiện qua sự bố trí và miếu hãm..của một số tinh tú (nhưng không phải là tất cả!).
– Đối với lời giải đoán : việc Luận Ngũ Hành trong Tử Vi: Ta nên chia ra làm hai bước:
Bước 1: Những nhận định tổng quát : Cho ta nhưng cái nhìn khái quát, tổng thể cuộc đời của đương số, giai đoạn này cần phải cân nhắc nhiều về vấn đề Âm Dương, Ngũ Hành để mà gia giảm.
Bước 2: Những luận đoán “tinh” : Ở phần này thì nên chuyên sâu đi vào việc phân tích cách cục, bố trí tinh diệu…trong phần này, sư ảnh hưởng của Âm Dương, Ngũ Hành có phần “nhẹ nhàng” hơn.”