Những khái niệm cơ bản về Âm dương Ngũ Hành
Học thuyết Âm dương Ngũ hành đến nay khởi nguồn từ bao giờ và do ai phát minh thực sự là còn nhiều điều tranh cãi, các học giả ngày nay lục tung các kho thư viện lớn bé lên mà chỉ thấy học thuyết này được nhắc tới trong một số thư tịch cổ của Trung Quốc từ thời Chiến Quốc.
Cũng có quan điểm rằng, học thuyết này có thể khởi phát từ rất rất lâu trước đó.
Lại cũng có quan điểm của một số học giả Việt nam cho rằng học thuyết âm dương ngũ hành có nguồn gố tử Việt Nam !!??
Dù sao thì chúng ta , những kẻ hậu bối, kiến thức hạn hẹp, đành bó tay mà chập nhận vài trò ý nghĩa của học thuyết này bằng những lý lẽ hết sức “vững chắc” sau:
– Nền y học phương đông ( Đông y) tồn tại và phát triển hàng nghìn năm nay tỏ rõ sự hiệu quả không thể chối cãi của nó. Mà Đông Y thì sử dụng các kêt quả của học thuyết Âm dương ngũ hành
– Nói riêng với các môn thuật số bói toán: Tử vi, Tứ trụ, bốc dịch, mai hoa, rồi Thái ất, Kỳ môn….thì rất nhiều thể chế xã hội, rất nhiều tầng lớp con người ở các thời điểm khác nhau, các địa phương khác nhau sử dụng nó, hoặc sử dụng kết quả của nó để làm kim chỉ nam cho những quyết định quan trọng trong cuộc đời mình
– Vân vân và vân vân…
Cho nên, tôi đề nghị với các bạn hãy tạm gác chuyện tìm hiểu nguồn gốc xuất sứ của học thuyết này lại đã, cứ dùng hệ thống lý thuyết được truyền tải qua các kết quả nghiên cứu đã được đúc kết của nó đã. Đúng sai thực tế chứng minh liền à
Dù vậy, nói về âm dương ngũ hành thì chắc là cả đời tôi và các bạn chắc không nói hết, cần phải biết chắt lọc các vấn đề chính để áp dụng cho môn tử vi ( chúng ta đang học tử vi mà, sa đà quá vào môn khác làm gì nhỉ).
Do đó trươc tiên tôi đê nghị các bạn vẫn cứ đọc và nghiên cứu một cuốn sách về học thuyết này, ví dụ cuốn Học thuyết âm dương ngũ hành, của lương y Lê Văn Sửu do NXB Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998. Bạn có thể download bản ebook trong thư viện của Diễn đàn tử vi Việt Nam hoặc search google đều có sẵn cả.
Thứ nữa, tôi đề nghị các bạn hãy ghi nhớ thật chắc các mục trình bày sau đây. Tất cả đều được dùng rất nhiều trong môn Tử vi đẩu số và là kiến thức bắt buộc phải nắm vững nếu muốn nghiên cứu môn này.
Xin nhắc lại, hãy tạm chấp nhận những kiến thức này mà quên đi cách tìm ra nguồn gốc xuất sứ của chúng.
I.CÁC THUẬT NGỮ CƠ BẢN VỀ ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA THIÊN CAN ĐỊA CHI VÀ BẢN MỆNH
1.1. Nhận xét chung
Sáu mươi hoa Giáp, được cấu thành bởi 10 Thiên can và 12 Địa Chị. Thiên Can và Địa chi cũng được phân định Âm Dương ngũ hành rõ ràng.
Từ việc ghi nhớ các thuật ngữ, quy ước của nội dung này, giúp ta phân biệt được Âm (Dương) Nam, Dương (Âm) Nữ để tiến hành phép an sao trong Tử Vi.
1.2. Các thuật ngữ cơ bản về Âm Dương ngũ hành của 10 Thiên Can và 12 Địa Chi
1.2.1. Phân định tuổi Âm hay Dương
a. Phân định Âm Dương theo Thiên Can của năm sinh
Được tổng hợp trong Bảng sau:
b. Phân Âm Dương theo Địa Chi của năm sịnh
Được tổng hợp trong Bảng sau:
Việc phân biệt tuổi Âm hay Dương theo hai cách trên đều có kết quả như nhau và được định nghĩa như sau:
Nếu là nam, tuổi Dương thì gọi là Dương Nam, tuổi Âm thì gọi là Âm Nam.
Nếu là nữ, tuổi Dương thì gọi là Dương Nữ, tuổi Âm thì gọi là Âm Nữ.
1.2.2. Phân định Ngũ sắc, Ngũ hành, Bát quái và Phương hướng
Được tổng hợp trong Bảng sau:
1.2.3. Phân định hợp, phá của Thiên Can
Mười Thiên Can được chia ra các cặp Thiên Can hợp, phá như sau:
II. Sơ lược về ngũ hành nạp âm và cách tính ngũ hành nạp âm
Nạp Âm là khái niệm vô cùng quan trọng của Dịch Học. Trong Thuyết Tam Tài THIÊN – ĐỊA – NHÂN thì NHÂN chính là Ngũ Hành của Nạp Âm. Trong nhiều môn thuật của Lý Số nói chung và trong Tử vi đẩu số nói riêng thì Ngũ Hành của Nạp Âm là cái HỒN, là TÂM LINH của CON NGƯỜI.
Để tìm hiểu về căn nguyên khởi phát của ngũ hành nạp âm thì có rất nhiều tài liệu: cổ có, kim có và cũng nhiều tranh cãi khá là rắc rối. Tôi gợi ý các bạn có ý định tìm hiểu sâu hơn thì nên tham khảo “Chuyên Đề Nguyên Lý Nạp Âm” của tác giả LÝ TRẦN LÊ đăng trên các diên đàn lý số mạng vào 2012 (có thể tải về TẠI ĐÂY)
Trước mắt, cứ biết rằng cái ngũ hành nạp âm này rất quan trọng trong tử vi đẩu số. Cho nên bạn tạm phải thuộc cái bảng Nạp âm hoa giáp sau: (tôi copy cái bảng này trên mạng, lười sửa lại, các bạn chỉ cần quan tâm cột số 2 – Can chi và cột số 3-Niên mệnh thội nhé)
Tổng cộng 60 tuổi phải nhớ, cũng khù khoằm ra phết đấy ạ.
Cái bảng này thường là rào cản rất lớn cho người mới học Tử vi vì quy luật không rõ ràng lắm, lại toàn tiếng Hán việt, khó nhớ phết, may thay có vài cách gọi là mẹo tôi đã sưu tầm trên mạng hòng giúp các bạn nhớ được nó, xin trình bày cả ra đây cho các bạn tiện tham khảo
Cách 1: Tra bảng ở trên. Ví dụ Sinh năm 1976 Bính Thìn là Mệnh Thổ, Nạp âm là Sa Trung Thổ.
Cách này thì có vẻ cơ bắp nhất nhưng mà theo tôi thì nên dùng vì nó nhớ cả cụm ngũ hành nạp âm ví dụ Canh Thân Tân Dậu Thach Lựu Mộc, bạn chỉ cần lưu ý đến người thân xung quanh mình là cũng ra được khơ khớ rồi, Như tôi ban đầu cố nhớ bố mẹ cô dì chú bác , những người sinh 195x, sau nhớ anh chị những người sinh 187x, Nhớ thê hệ tôi 198x , nhớ mấy bạn thế hệ 9x, Nhớ vài năm thế hệ con cái 201x. Thế là cũng gần hết rồi. Thêm ít buổi tập an lá số là thuộc, khỏi phải làm mấy trò bấm tay như giới thiệu ngay dưới đây
Bạn cứ in bảng ra nho nhỏ như cái phao ruột gà khi đem vào phong thi ấy,nhét vào ví, thình thoảng rảnh bỏ ra tra cũng nhanh thuộc thôi
Cách 2: Cách này chỉ tìm được ngũ hành mà ko tìm được đủ cụm nạp âm.
Để hiểu được trước hết cần ghi nhớ được vị trí của 12 Địa Chi qua hai phương pháp an trên giấy và trên bàn tay như sau:
Bước 1: Xác định Thiên Can trên lòng bàn tay
Trong đó:
Cung Tí đọc Giáp – Ất.
Cung Sửu đọc Bính – Đinh.
Cung Dần đọc Mậu – Kỷ.
Cung Mão đọc Canh – Tân.
Cung Thìn đọc Nhâm – Quý.
Bước 2: Xác định Địa Chi trên lòng bàn tay
Trong đó:
Cung Tí đọc Tí – Sửu.
Cung Thìn đọc Dần – Mão.
Cung Mão đọc Thìn – Tị.
Cung Tí đọc Ngọ – Mùi.
Cung Thìn đọc Thân – Dậu.
Cung Mão đọc Tuất – Hợi.
Lưu ý: Địa chi ở đây được an ngược chiều kim đồng hồ từ Tý đến Thìn rồi Mão và lập lại chu kỳ trên cho hết 12 Địa chi.
Bước 3: Xác định Ngũ Hành
Từ cung Địa chi (địa chi của lá số cần xác định) này đọc thuận theo chiều kim đồng hồ năm cung đó các Ngũ hành là Kim – Thủy – Hỏa – Thổ – Mộc gặp Thiên Can (của tuổi cần xác định) ở đâu lấy Ngũ hành đó làm Ngũ hành của Hoa giáp.
Ví dụ 1: Xác định Bản Mệnh của tuổi Nhâm Tuất;
Theo bước 1, “Hình A” Can Nhâm thuộc Cung Thìn
Theo bước 2, “Hình B” Chi Tuất thuộc cung Mão.
Theo bước 3, Ta dùng hình B để tính, tại vị trí Chi Tuất thuộc Mão kể là KIM đếm thuận
KIM tại Mão Thủy tại Thìn. Đến đây trùng với Nhâm nên ta dừng.
Do vậy Nhâm Tuất thuộc Thủy Mệnh.
Ví dụ 2: Xác định Bản Mệnh của tuổi Bính Dần;
Theo bước 1, “Hình A” Can Bính thuộc Cung Sửu
Theo bước 2, “Hình B” Chi Dần thuộc cung Thìn.
Theo bước 3, Ta dùng hình B để tính, tại vị trí Chi Dần thuộc Mão kể là KIM đếm thuận
KIM tại Thìn,Thủy tại Tý , Hỏa tại Sửu. Đến đây trùng với Bính nên ta dừng.
Do vậy Bính Dần thuộc Hỏa Mệnh.
Cách 3: Cách này chỉ tìm được ngũ hành mà ko tìm được đủ cụm nạp âm.
Cách này phù hợp với các bạn trẻ, tính nhẩm nhanh. Chúng ta quy ước đánh số như bên dưới đây
Thiên can thì ta nhẩm Giáp Ất 1 – Bính Đinh 2 – Mậu Kỷ 3 – Canh tân 4 – NHâm Quý 5
Địa chỉ thì ta nhẩm: Tý Sửu 0 – Dần Mão 1 – Thìn Tị 2 – Ngọ Mùi 0 – Thân Dậu 1 – Tuất Hợi 2
Giờ muốn tìm ngũ hành nạp âm thì chỉ việc áp dụng công thưc sau
Ngũ hành nạp âm = (SỐ CAN +SỐ CHI) Chia 5 lấy phần Dư ( trong toán học ký hiệu là phép tính MOD)
có kết quả thì tra bảng sau:
Chú ý cái chiều Kim – Thủy- Hỏa -Thổ -Mộc ( nếu đảo chỗ Thủy Hoa thì thành chiều tương khắc ngược Kim Hỏa Thủy Thổ Mộc của ngũ hành, vì cái điều này mà một số ông học giả đã tự tiện đổi chỗ và nói cái Bảng nạp âm hoa giáp của Tàu khựa là sai, rồi đem cái bảng sửa đổi ấy bảo là của dân An Nam nhà ta hehe)
Ví dụ: Tuổi Canh (4) Thân (1): 4+1=5 mod 5 =5 —-> Mộc ( Quả là Fast ‘n Furious 8 phải không??)
Còn 1 cách nữa phải thuộc 1 bài thơ chữ Hán, mà tôi chẳng dùng bao giờ vì thấy bất tiện, bạn nào muốn dùng có thể tham khảo trogn các sách Tử vi viết trước năm 1975 như Tử vi Ảo Bí của cụ Việt Viêm Tử chẳng hạn