Hợp tịnh Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập (phần 3)
92. Chú giải Đẩu Số Cốt Tủy Phú
Thái cực tinh diệu, nãi quần tú chúng tinh chi chủ,
thiên môn vận hạn, tức phù thân trợ mệnh chi nguyên,
tại thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc mệnh hữu cách cục.
(Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú,
vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh
ở tại trời thì sự vận dụng là vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cục rõ ràng).
Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.
Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị.
(Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao.
Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu).
Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân.
Hoặc tại vượng hương, t*o liên niên chi khốn khổ.
Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy,
cát hung bất khả nhất lệ nhi đoán.
(Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn.
Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác.
Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán,
cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu).
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.
Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số).
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã,
nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã,
thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên.
Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.
(Tươi tốt thì được phú quý vậy, khô héo thì bần tiện vậy,
xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.
Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại.
Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận… mà nói).
Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,
như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ,
tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý,
ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện,
mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.
(Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.
Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,
Gặp tứ Sinh, Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý,
Gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện,
Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung dung bình thường).
Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần,
an thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện,
thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.
(Lập Mệnh tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn nếu lập Mệnh ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì nghèo,
An Thân tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn nếu an Thân ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì ti tiện,
tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,…)).
Đệ nhất tiên khán phúc đức,
tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng,
định tam hợp chi nguyên lưu.
Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần.
Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,
kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
(Thứ nhất khán Phúc Đức,
rồi khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể Dụng của đối cung,
xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp.
Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu.
Cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết.
Phàm đã được căn nguyên vững chắc, cần hợp cục tương sinh,
vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng).
Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn m*y).
[Giả dụ như, Thân Mệnh tọa ở nơi Trường Sinh Đế Vượng, bản cung lại đắc cát tinh miếu vượng, cùng với đại tiểu hạn tương sinh tốt lành, gặp cát tinh nữa thì cả đời chẳng có mưu cầu gì là không được toại ý cả.
Giả như, Thân Mệnh cư ở chỗ Tử Tuyệt, bản cung không thấy cát hóa, hội thêm Kình Đà, giáp Linh Hỏa Không Kiếp các loại ác diệu, mà vận hạn lại không có cát tinh tiếp ứng, thì nhất định đó là số chủ bần tiện vậy].
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri,
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
(cách “giáp Quý, giáp Lộc” này trên đời ít người gặp được, Quý ở đây chính là các sao tôn quý và các quý nhân tinh,
Cách “giáp Quyền, giáp Khoa” thì ở đời cũng hiếm như thế.)
[Giả như, người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quý, an Mệnh tại Thìn Tuất, là giáp với Khôi Việt, lại có thêm cả cách giáp cung an Thân an Mệnh gặp Tử Vi Thiên Phủ Nhật Nguyệt Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc thì là giáp Quý, tất sẽ được phú quý vậy. Như người tuổi Giáp, với Thân Mệnh ở Sửu Mão và Dần có Lộc ở trong đó, gọi là “sinh thành chi Lộc”, là thượng cách. Ngoài ra giả sử như Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu, 4 vị đó đều cùng cách ấy.
Như người sinh năm Giáp mà Mệnh an tại Tý có Liêm Trinh hóa Lộc cư Hợi, Phá Quân hóa Quyền cư Sửu, chính là Quyền Lộc giáp Mệnh, định là chủ phú quý, ngoài ra cứ phỏng theo đó mà tính].
Giáp Nhật giáp Nguyệt thùy năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề.
(cách “giáp Nhật giáp Nguyệt” thì người ta thường thông minh,
cách “giáp Xương giáp Khúc” là chủ về quý).
[Giả như Thái Dương, Thái Âm tại Mệnh Thân mà 2 cung trước sau giáp Mệnh, không gặp phải Không Kiếp Kình Linh, tất sẽ quý vậy.
Như Xương Khúc giáp Mệnh thì cũng quý như vậy].
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện,
Giáp Dương giáp Đà vi khất cái.
(cách “giáp Không giáp Kiếp” là chủ nghèo hèn,
cách “giáp Kình giáp Đà” là số ăn m*y).
[Giả như Mệnh có Hóa Kị gặp Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Đà các sát tinh giáp Thân Mệnh này, cùng Liêm Phá Vũ các sao gặp chúng thì định là chủ cô đơn, nghèo hèn, nếu chẳng nghèo thì yểu, phê là hạ cách.
Lại như Mệnh có Hóa Kị, đồng thời Kình Đà Hỏa Linh đến giáp 2 bên, cũng phê là hạ cách, có thể Lộc tại chỗ Sinh Vượng thì tuy là giáp Kình Đà nhưng không coi là hạ cách.
Lại hoặc như Kình Đà Không Kiếp không cùng tới giáp 2 bên, mà ở tam phương gặp được Quyền Lộc thì cũng không luận là giáp bại được, thế nhưng vận hạn mà gặp sát tinh thì có tai họa liền].
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân,
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
(Liêm Trinh Thất Sát khi gặp phản cách là trở thành người giàu có
Thiên Lương Thái Âm mà lạc hãm thì lại thành ra khách phiêu bồng).
[Liêm Trinh thuộc Hỏa, Thất Sát thuộc Kim, là Hỏa chế Kim thành quyền, như Liêm Trinh cư Mùi Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được là kỳ cách, phản chuyển thành giàu có, hoặc nếu hãm địa Hóa Kị thì là hạ cách.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này sai toét, làm gì có chuyện trong cùng lá số mà “Liêm cư Mùi, Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được” ở chỗ 2 cung cạnh nhau cho được!!! Theo thiển ý của tôi thì để được gọi là “phản vi kỳ cách” thì Liêm Sát đồng cung và tuổi gặp được cát hóa, xa lánh sát hung tinh, ví dụ tuổi Giáp có Liêm hóa Lộc thủ Mệnh còn Phá hóa Quyền đóng ở cung Quan là hợp cách. Hoặc là một số trường hợp khác,… Độc giả lưu ý vậy).
Thái Âm mà cư Mão Thìn Tị Ngọ đều là hãm địa, như tại Hợi Tị nhị cung gặp Thiên Lương tọa ở Thân Mệnh thì định là chủ cô đơn nghèo túng, bằng không sẽ phải tha hương phiêu đãng, là kẻ đam mê tửu sắc mà thôi, lại nói Thiên Lương tuy không hãm nhưng cũng không thể khiến cho thành người đôn hậu được.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này cũng nhập nhằng luôn!!! Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu rằng Mệnh có Thái Âm hãm, Thân cư Quan có Thiên Lương hãm hoặc ngược lại Mệnh có Thiên Lương hãm, Thân cư Tài có Thái Âm hãm là được. Độc giả lưu ý vậy)].
Liêm Trinh chủ hạ tiện cô hàn.
Thái Âm chủ nhất sinh khoái lạc.
(Liêm Trinh chủ hạ tiện cô đơn nghèo túng
Thái Âm chủ một đời vui sướng mau mắn).
[Giả như Thân Mệnh cư Tị Hợi gặp Liêm Trinh chính là hãm địa, tam phương và hai cung trước sau lại không có cát tinh củng chiếu giáp bên, thì định là bần tiện.
Như Mệnh Thân từ Mùi tới Tý cung gặp Thái Âm tất chủ phú quý, hoặc có nhiều cát tinh thì phú quý chẳng ít, hoặc nếu ít cát tinh thì cũng chủ đao bút công danh].
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Thân Mệnh chi địa,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Mệnh Thân,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
[Quyền Lộc thủ ở Tài Bạch và Phúc Đức nhập miếu có nhiều cát tinh thì định là chủ vinh hoa, Thân Mệnh gặp được cũng đương nhiên như vậy.
Kiếp Không tại hai cung Tài Bạch Phúc Đức thì chủ nhân nghèo hèn, Thân Mệnh mà gặp thì cũng đương nhiên như vậy].
Tiền bần hậu phú tu hoàn mệnh trị Vũ Tham,
Tiên phú hậu bần chích vi vận phùng Kiếp Sát.
(Trước nghèo sau giàu bù lại là bởi Mệnh gặp Vũ Tham
Trước giàu sau nghèo chỉ vì vận hạn gặp Kiếp Sát).
[Giả như, Mệnh lập tại Sửu Mùi có Vũ Tham đồng cung, cái Kim của Vũ Khúc thường có thể chế Mộc của Tham lang thì Mộc gặp chế hóa thành hữu dụng, vốn trước thì tuy nghèo mà sau này mới giàu, lại vừa được tam phương có Xương Khúc Tả Hữu các cát tinh củng chiếu thì chủ quý, hạn gặp Khoa Quyền Lộc tất sẽ quý hiển đấy mà.
Như Thân Mệnh cung có một, hai chính tinh, phía ngoài cũng gặp cát tinh, hạn trung niên đi vào Tuyệt địa, đồng thời gặp Kiếp Không Hao Sát các hung tinh, thì sao thủ Thân Mệnh vô lực, đó là nguyên do mà sau này nghèo vậy].
Văn Khúc Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng,
Tả Phụ Hữu Bật bản tính khắc khoan khắc hậu.
(Văn Khúc Vũ Khúc là người học nhiều và có nhiều năng lực,
Tả Phụ Hữu Bật thì bản tính khoan thai, nhân hậu).
[Giả như, Thìn Tuất Tị Hợi Mão Dậu mà an Mệnh gặp hai sao Văn – Vũ Khúc thì đúng là vậy, có Xương Khúc tọa Mệnh ở Mùi mà thấy Kình Đà các sát tinh thì lại dễ bị tai ương, bởi thế phép xem số cần trọng yếu sự linh hoạt.
Như Tả Hữu nhị tinh mà tọa Mệnh, không cần câu nệ nhiều sao hay ít sao cũng đều chủ người có tính tình khoan hậu].
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi y lộc chi thần,
Vi sĩ vi quan định chủ hanh thông chi triệu.
(Thiên Phủ và Thiên Tướng là thần của tước lộc,
Là kẻ sĩ là kẻ quan đều định chủ điềm được hanh thông).
[Giả như, an Mệnh tại Sửu, ở Tị Dậu cung có Phủ Tướng tới chầu, hoặc ở Mùi cung an Mệnh mà ở Hợi Mão có Phủ Tướng tới chầu cũng vậy, người tuổi Giáp mà không có sát tinh thì cứ y như thế mà đoán, nếu như thêm sát thì không phải vậy].
Miêu nhi bất tú Khoa danh hãm ư hung hương,
Phát bất chủ tài Lộc chủ triền ư nhược địa.
(Mầm non nhú lên mà chẳng phát triển được, là vì Khoa bị hãm ở nơi hung hiểm,
Phát mà lại không chủ tiền tài, ấy là do Lộc đi vào triền độ của chỗ nhược địa).
[Giả như Khoa lâm vào trong chỗ có Không Kiếp Kình Đà thì vậy, lại hoặc là Thái Dương ở Tuất, hay Thái Âm ở Mão thì kể cả có cát hóa Khoa Quyền Lộc thì cũng không là đẹp được.
Giả như, Hóa Lộc hãm nơi Không Kiếp thì vậy, lại hoặc là ở Tý Ngọ Thân Dậu cung tuy Hóa Quyền Lộc thì cũng vô dụng, chủ cô đơn nghèo túng.
Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh xương,
Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu.
(Thất Sát chầu Đẩu thì quan tước lợi lộc được tốt tươi hưng thịnh,
Tử Phủ đồng cung thì cả đời được hưởng phúc dày).
[Giả như, an mệnh tại 4 cung Dần Thân Tý Ngọ có Thất Sát thì gọi là như vậy (tức, “Thất Sát triều đẩu”), cũng cần Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc tọa chiếu củng hợp thì mới theo y như thế mà đoán, có thể gặp hạn tốt đẹp thì cực hay, nếu như thêm sát tinh thì không đoán thế được.
Giả như, hai cung Dần Thân an Mệnh gặp Tử Phủ đồng cung, tam phương có Tả Hữu Khôi Việt củng chiếu thì tất sẽ chủ phú quý, cả đời được hưởng phúc dày, người tuổi Giáp hóa cát thì cực kỳ đẹp].
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu vị chí tam công,
Thiên lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim y tử.
(Tử Vi cư Ngọ mà không có sát tinh tụ tập vây chiếu thì tước vị cỡ Tam Công,
Thiên Phủ ở Tuất có các sao phù trợ thì được mang đai vàng áo tía – ý nói quan phục cao cấp)
[Giả như, người sinh năm Giáp Đinh Kỷ mà mệnh an tại Ngọ được như vậy (Tử Vi vô sát tấu) là nhập cách, chủ đại quý, ngoài ra thì cũng giàu đủ hoặc là tiểu quý.
Giả như, người sinh năm Giáp Kỷ mà an Mệnh ở cung Tuất được như thế (Phủ có sao phù trợ) thì cứ y vậy mà đoán, thêm sát tinh thì không đoán thế nữa, trọng yếu là có Khôi Việt Tả Hữu Lộc Quyền thì chủ đại phú đại quý, nếu như không có các cát tinh ấy thì cũng bình thường thôi].
Khoa Quyền Lộc củng danh dự chiêu chương,
Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch.
(Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì rõ ràng có tên tuổi và vinh dự,
Vũ Khúc nhập miếu thì uy danh cũng lẫy lừng, long trọng).
[Chúng là Tam Hóa cát tinh, nếu như Thân Mệnh tọa thủ một Hóa, Tài Bạch và Quan Lộc có 2 hóa đến hợp chiếu, đích thị là tam hợp thủ chiếu, được gọi là “Khoa Quyền Lộc củng” vậy, thêm cát tinh nữa thì tước vị cỡ Tam Công.
Giả như, an mệnh ở hai cung Thìn Tuất gặp được Vũ Khúc nhập miếu thì là thượng cách, ở Sửu Mùi an Mệnh thì chỉ là thứ cách, cần phải thấy Tả Hữu Xương Khúc và các cát tinh thì cứ y như thế mà đoán].
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai,
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá.
(có cách “Khoa minh Lộc ám”, tức có Khoa ở tam phương tứ chính còn Lộc ở giáp cung hoặc ám hợp, thì tước vị cỡ Tam Thai – Tam Thái, Tam Công,
có cách “Nhật Nguyệt đồng lâm”, tức là có Nhật Nguyệt cùng chiếu về bản cung, thì làm quan được phong Hầu, phong Bá).