Thập bát phi tinh phần 4
[Giả như, người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, lại có Thiên Lộc cư ở cung Dần, thì Hợi với Dần là nhị hợp, cho nên viết là “Khoa minh Lộc ám”.Giả như, Mệnh an tại cung Sửu, trong khi ở Mùi lại có Nhật Nguyệt đồng cung xung chiếu, hoặc Mệnh an tại Mùi còn ở Sửu lại có Nhật Nguyệt đồng cung thì là cách ấy vậy (Nhật Nguyệt đồng lâm), phép bí truyền nói “Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung”, người tuổi Bính tuổi Tân gặp được hưởng phúc hưng thịnh].
Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị,
Tham Linh tịnh thủ tướng tướng chi danh.
(Cự Cơ đồng cung thì có tước vị cỡ Công hầu khanh tướng
Tham Linh tịnh thủ thì được nổi danh là tướng tài).
Như an Mệnh tại các cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý mà gặp Tham Linh, thì là nhập miếu nên cứ theo y như vậy mà đoán, nếu như gia cát tinh thì duy chỉ có tọa thủ ở hai cung Tý Thìn thì rất đẹp, người tuổi Mậu Kỷ là hợp cách].
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương,
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
(Có Khôi Việt thì là người có tài văn chương cái thế,
Có Lộc Mã thì cũng đỗ đạt thủ khoa khiến người ta nể phục).
Giả như, an Mệnh tại các cung Dần Thân Tị Hợi gặp Thiên Lộc, Thiên Mã tọa thủ. Mệnh cung có thêm tam hợp cát tinh thủ chiếu thì cứ y như thế mà đoán. Nếu có thêm sát tinh thì không đoán như vậy].
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh tôn cư bát tọa,
Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang.
(Tả Phụ Văn Xương hội với các cát tinh thì chỗ ngồi tôn quý, quan cao cấp
Tham Lang Hỏa Tinh cùng cư nơi miếu vượng thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
Giả như, an Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, gặp được chúng (Tham Hỏa) ở đó là thượng cách, tam phương có cát tinh củng chiếu thì rất đẹp. Nếu như ở Mão an Mệnh thì là thứ cách. Nếu như có Kình Đà Không Kiếp thì không được cát lợi].
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại,
Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung.
(Cự Nhật đồng cung thì ba đời được gia phong quan chức
Tử Phủ chầu mệnh viên thì được hưởng lộc ăn tới hàng vạn chung – bổng lộc hậu hĩnh).
Cung Thân (khỉ) có Nhật thủ mệnh, ở Dần có Cự đến chầu cũng là thượng cách. Dần có Nhật thủ Mệnh, ở Thân (khỉ) có Cự đến chầu thì là người bình thường.
(QNB chú: Nếu trong 1 lá số thì không bao giờ có các trường hợp Mệnh có Nhật ở Dần, mà Di có Cự ở cung an Thân, và ngược lại được. Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu trường hợp này là Mệnh vô chính diệu ở cung Thân (khỉ) và cung Dần an Thân cư Di có Cự Nhật chầu Mệnh, người tuổi Đinh Tân có Khoa Quyền Lộc củng mới có thể coi là thượng cách. Số của ông Vương Hàn – tự là Tử Vũ có cách này. Độc giả lưu ý vậy!).
Như Dần cung mà an Mệnh, ở Ngọ Tuất cung có Tử Phủ đến chầu, hoặc cung Thân (khỉ) mà an Mệnh có Tử Phủ ở Tý Thìn đến chầu, thì là tượng của “nhân quân phỏng thần” (người vua tới thăm hỏi bề tôi), là kỳ cách vậy. Gặp thêm lưu Lộc trong hạn thì tất nhiên sẽ được tước vị tận công hầu khanh tướng. Nếu như Thất Sát tại Mệnh ở Dần Thân cũng coi là thượng cách. Nếu như có Hóa Kị gia thêm hung sát tinh thì luận là bình thường].
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn,
Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư nghiêu điện.
(Có Khoa Quyền, 1 đối cung và 1 tam hợp củng chiếu thì như cá chép vượt vũ môn hóa rồng,
Có Nhật Nguyệt cùng sáng rực rỡ thì được phò tá cho bậc quân vương nơi cung điện).
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật ở Tị và Nguyệt ở Dậu tới chầu là tịnh minh (sáng rực rỡ), người sinh năm Tân Ất là hợp cách, nếu như sinh năm Bính thì chủ quý, tuổi Đinh thì chủ phú, nếu thêm Tứ Sát Kiếp Không Kị thì lại bình thường].
Phủ Tướng đồng lai hội mệnh cung toàn gia thực lộc,
Tam hợp minh châu sinh vượng địa ổn bộ thiềm cung.
(Phủ Tướng mà cùng đến hội tụ ở Mệnh cung thì cả nhà có của ăn của để, có lộc,
Tam hợp mà có (Nguyệt) sáng như ngọc ở nơi vượng địa thì ung dung dạo bước cung trăng).
[Tam hợp (có Phủ Tướng) chiếu đến gặp thêm bản cung nhiều cát tinh, Thân Mệnh không ở chỗ bại địa thì đó là cách “Phủ Tướng triều viên”, tất sẽ phú quý vậy. Phép bí truyền nói “Phủ Tướng miếu viên cách cực kỳ tốt, ra làm kẻ sĩ làm quan đều đại cát, hưng thịnh”.
Như tại Mùi cung an Mệnh, có Nhật ở Mão, có Nguyệt ở Hợi tới chầu, là cách “Minh châu xuất hải”, nhất định là chủ tiền tài quan lộc đều song toàn tốt đẹp. Như Thìn cung có Nhật thủ Mệnh, Tuất cung có Nguyệt đối chiếu, hoặc Nguyệt thủ Mệnh ở Tuất và Thìn cung có Nhật đối chiếu, thì cũng chủ cực quý].
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại,
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(Thất Sát Phá Quân thích hợp / cần phải đi ra bên ngoài,
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hợp làm quan lại).
Bốn sao này (Cơ Nguyệt Đồng Lương) tất Thân Mệnh tam hợp (với Văn) Khúc thì có thể có công danh thành tựu trong nghiệp nghiên bút. Thêm Sát tinh Kị tinh là hạ cách. Phép bí truyền nói “Dần Thân hội Đồng Lương Cơ Nguyệt, tất định làm kẻ quan lại”, nếu mà không đủ 4 sao mà chỉ có 3 thôi thì khó thành công].
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa đoán định công hầu khí,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc sửu cung trung định thị phương bá công.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt mà ở chỗ vượng địa thì đoán định là được tước vị Công, Hầu,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc ở trong cung Sửu thì định là có làm quan đến tước Bá, tước Công).
[Tử Vi cư Ngọ và Thiên Phủ ở Tuất cung, Nhật ở Mão Thìn với Nguyệt ở Dậu Tuất Hợi cung, lại hóa Lộc Khoa Quyền tọa nơi Thân Mệnh thì chính là như vậy. Có thêm Sát tinh Kiếp Không Kị thì không phải thế, như vậy là ngọc đẹp mà lại có tì vết.
Sửu Mùi cung mà an Mệnh, có Nhật Nguyệt hóa Khoa Lộc tọa thủ thì là như vậy, nếu như không có cát hóa thì Nhật Nguyệt đồng cung là không đẹp vậy, phép bí truyền nói:
“Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng
Tam phương vô cát phúc nan sinh
Nhược hoàn cát hóa phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng”
(Nhật Nguyệt Sửu Mùi, mệnh ở trong
Tam phương thiếu cát, phúc khó phong
Nếu mà cát hóa thành ra đẹp
Được cả uy quyền, phúc lộc tăng)].
Thiên Lương Thiên Mã hãm phiêu đãng vô nghi,
Liêm Trinh Sát bất gia thanh danh viễn bá.
(Thiên Lương Thiên Mã cùng chỗ lạc hãm, thì đoán là số phiêu đãng mà khỏi cần nghi ngờ,
Liêm Trinh không bị thêm sát tinh thì thanh danh được gia phong, lừng lẫy).
[Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Thiên Lương hãm, lại cùng Thiên Mã đồng cung, lại có thể bị vây hãm bởi Hỏa La Không Kiếp (Hỏa Tinh, Đà La, Không Kiếp) thì cứ y như thế mà đoán.
“Sát” là Tứ Sát vậy, như Mão cung mà an Mệnh, có Liêm Trinh không gặp Tứ Sát thì chủ quý, cũng cần phải có tam hợp cát tinh củng chiếu thì được thanh danh vang dội, nếu có thêm sát tinh thì bình thường. Hoặc tại hai cung Mùi Thân mà tọa Mệnh không gặp sát tinh cũng tốt lành].
Nhật chiếu lôi môn phú quý vinh hoa,
Nguyệt lãng thiên môn tiến tước phong hầu.
(Có cách “Nhật chiếu lôi môn” – Mặt Trời chiếu từ cửa nhà sấm – tức là Thái Dương ở cung Mão, thì được phú quý vinh hoa,
Có cách “Nguyệt lãng thiên môn” – Mặt Trăng sáng đẹp ở cửa trời – tức là Thái Âm ở cung Tuất Hợi (chỗ quẻ Càn) thì được tăng tước vị, được phong Hầu).
[Cung Mệnh an tại Mão (cung Chấn – sấm) có Thái Dương tọa thủ thì gọi là “Nhật xuất/chiếu lôi môn”, được thêm ở tam phương có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu thì phú quý không hề nhỏ, người tuổi Giáp Ất Canh Tân là hợp cách, (dẫu) có thêm Hình Kị Tứ Sát thì cũng chủ no ấm.Cung Mệnh an tại Hợi (cung Càn – trời) có Thái Âm tọa thủ thì gọi là “Nguyệt lãng thiên môn”, được thêm tam phương có cát tinh củng chiếu thì chủ đại phú đại quý, không có cát thì cũng chủ có chút công danh nhưng làm tạp chức, người tuổi Bính Đinh thì chủ quý, người tuổi Nhâm Quý thì chủ phú].
Dần phùng Phủ Tướng vị đăng nhất phẩm chi vinh,
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát tọa chi quý.
(Ở cung Dần gặp Phủ Tướng chầu về là được thăng tiến vẻ vang tới hàm nhất phẩm,
Ở Mộ cung mà có Tả Hữu thì chỗ ngồi làm quan cao cấp, tôn quý).
[Dần cung an Mệnh, có Phủ ở Ngọ và Tướng ở Tuất đến chầu, người tuổi Giáp gặp được thì đúng là như vậy (thăng tiến quan lộ). Nếu như thêm Sát tinh thì không phải thế. Nếu như ở cung Dậu an Mệnh, có Phủ ở Sửu và Tướng ở Tị tới chầu thì cũng quý.
An mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, có Tả Hữu tọa thủ thì vậy, hoặc Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch mà gặp (Tả Hữu tứ Mộ) thì cũng chủ cả đời được phúc thọ.
(QNB chú: câu này có lẽ là Tả Hữu phù trì cho cách cục nào đó rất đẹp của chính tinh, nếu không chỉ có Tả Hữu mà nói như vậy thì thật quá lời. Độc giả lưu ý vậy)].
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển,
Khúc ngộ Lương tinh vị chí thai cương.
(Thiên Lương ở Ngọ là vị trí của người làm quan vô tư thanh liêm vẻ vang,
Văn Khúc gặp Thiên Lương chỗ miếu vượng thì tước vị cỡ Tam Thai, Tam Công).
Cung Ngọ an Mệnh có Văn Khúc Thiên Lương đồng cung tọa thủ là thượng cách, ở Dần cung thì là thứ cách, hoặc Lương tại Ngọ và Khúc tại Tý xung củng cũng làm quan tới cỡ nhị phẩm tam phẩm].
Khoa Lộc tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng,
Văn tinh ám củng Cổ Nghị doãn hĩ đăng khoa.
(Hạn gặp Khoa Lộc thì Chu Bột vui mừng được Lưu Bang phong làm tướng quân,
Có Văn tinh ám củng mà Cổ Nghị được đỗ đại khoa, thời Hán Văn Đế).
[Mệnh cung có cát tinh tọa thủ, tam phương Hóa cát xung củng, hoặc là trước cung Mệnh 3 vị (tức là Phúc Đức cung) gặp Khoa Quyền Lộc đều là tốt đẹp chủ phú quý.
Như Mệnh cung có cát tinh, Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch có Xương Khúc Hóa Khoa triều củng thì cũng được như vậy (đỗ đại khoa)].
Kình Dương Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành uy trấn biên di.
(Kình Dương và Hỏa Tinh đồng cung đắc địa thì uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành thì oai phong trấn áp được các nơi ngoài biên cương).
[Thìn Tuất Sửu Mùi tứ Mộ cung mà an Mệnh, gặp Kình Dương Hỏa Tinh nhập miếu thì chủ văn võ song toàn, binh quyền vạn dặm.
Cũng như Vũ Tham vượng địa ở Mộ cung gặp Hỏa Tinh thì cũng đoán giống như thế].
Lý Quảng bất phong Kình Dương phùng ư Lực Sĩ
Nhan Hồi yểu chiết Văn Xương hãm ư Thiên Thương.
(Lý Quảng không được Hán Văn Đế phong tước vì Kình Dương gặp Lực Sĩ,
Thày Nhan Hồi bị chết yểu là do Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương).
[Nhị tinh (Kình, Lực) thủ mệnh mà có nhiều cát tinh thì cũng là số bình thường, nếu thêm sát tinh thì cực kỳ hung hiểm, nữ mệnh lại không luận cách này.
Như người tuổi Sửu mà Mệnh an cung Dần, lại có Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương, tới hạn lưu niên lại gặp Thất Sát và Kình Đà trùng điệp thì đoán là chết yểu].
Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân,
Tử Vũ tài năng Cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
(Tử Lộ, tức Trọng Do, oai phong dũng mãnh là do Liêm Trinh miếu gặp Tướng Quân,
Vương Hàn, tức Tử Vũ, có tài năng ấy bởi Cự Môn xung mà Đồng Lương hợp chiếu).
[Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Liêm Trinh và Tướng Quân tọa thì là vậy, ngoài ra các trường hợp khác cũng phỏng theo đó mà xét.
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Cự ở Dần xung củng, có Đồng ở Tý và Lương ở Thìn tam hợp chiếu, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu xung củng hợp thì chính là cách ấy].
Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội,
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
(Ở chỗ Dần Thân thì rất mừng có được Đồng Lương tụ hội,
Nơi Thìn Tuất thì lại ngại có Cự Môn hãm lâm vào).
[Tại cung Dần an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, người sinh năm Giáp Canh cùng năm Thân thì được phú quý. Lại như ở cung Thân (khỉ) an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, thì người sinh năm Giáp Canh cùng năm Dần được hưởng phú quý.
An Mệnh ở chỗ hai cung Thìn Tuất, gặp Cự Môn hãm, chủ nhân làm việc đảo điên, thêm sát tinh thì toàn nói lời sai quấy, không thể tránh được hình khắc, thương tật, đòn roi. Nếu gặp thêm ác hạn thì hung hiểm vô cùng].
Lộc đảo Mã đảo kị Thái Tuế chi hợp Kiếp Không,
Vận suy hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ách.
Cô bần đa hữu thọ,
Phú quý tức yểu vong.
(Có cách “Lộc đảo”, “Mã đảo”, tức là Lộc Mã bị Không Vong án ngữ, thì rất kị gặp năm hạn có Kiếp Không hợp chiếu,
Vận suy hạn suy thì rất mừng được Tử Vi để mà giải hung ách.
Nghèo đói thì lại được thọ,
Phú quý thì phải chết non).
[Như Lộc Mã lâm vào chỗ Bại Tuyệt Không Vong (thì gọi là cách “Lộc đảo, Mã đảo”), mà đến lưu niên thái tuế hội hợp Kiếp Không thì luận là chủ lắm tai nhiều nạn, hối hận, phá tán tài sản.
Như đại tiểu hạn không gặp được cát diệu, mà Thân Mệnh lại có Tử Vi thủ chiếu thì tuy hạn hung nhưng chủ vẫn bình ổn, cái này gọi là Thân Mệnh có Chúa tinh đó mà.
Nếu như sao chủ mệnh nhược kém, cùng Tài Quan Tử Tức hãm địa, cũng cần phải giảm tài lộc để hưởng diên thọ vậy.
Lại như Thái Tuế tọa chỗ sao mệnh chủ cũng đều nhược kém, có thể Tài Quan có nhiều hóa cát, có thể đi đến hạn cát lành thì chủ định hoạnh phát nhưng không bền, được mười hay hai mươi năm khi qua vận thì yểu vong vậy].
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách,
Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
(Hạn có Điếu Khách Tang Môn nên nàng Lục Châu vướng ách nhảy lầu,
Vận gặp Quan Phù Thái Tuế nên chàng Công Dã phiền với gông xiềng).
[Đại tiểu hạn gặp tiền Tang Môn hậu Điếu Khách, cùng tới năm hạn Thái Tuế gặp hung tinh thì tất sẽ bị kinh sợ nguy hiểm như vậy, đó là dùng thần sát lưu niên để luận.
Thân Mệnh có Quan Phù Thái Tuế tọa thủ, cùng nhị hạn lại gặp Quan Phù với các sát tinh, cho nên mới hung như thế (vào tù). Công Dã Tràng là hiền nhân đệ tử của Khổng Tử vậy, Khổng Tử viết “Công Trung Tràng tuy ở trong gông xiềng nhưng cũng chẳng có tội gì cả, có thể gả con gái của mình cho nó”].
Hạn chí Thiên la Địa võng Khuất Nguyên nịch thủy nhi thân vong,
Vận ngộ Địa Kiếp Địa Không Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
(Hạn tới chỗ Thiên La Địa Võng nên Khuất Nguyên ôm phiến đá nhảy sông Mịch La mà chết,
Vận gặp Địa Kiếp Thiên Không nên Nguyễn Tịch nát rượu lâm vào cảnh cực khổ bần cùng).
[Nhị hạn đi tới hai cung Thìn Tuất gặp phải Vũ Tham, có thêm Thái Tuế Tang Môn Điếu Khách Bạch Hổ cùng Kiếp Sát Không Vong Tứ Sát, hoặc có thể một lần gặp xung chiếu trong kỳ hạn thì cực hung, cho nên mới vậy (nhảy sông tự tử).
Nhị hạn ở trong 12 cung nhưng gặp 2 sao Không Kiếp, tuy nhiều cát cũng thành ra tiền đến rồi tiền lại đi, nếu như gặp lưu niên sát tinh, hung tinh thì nhất định là nghèo khốn].
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên,
Mệnh Không hạn Không vô cát tấu công danh thặng đặng.
(Xương Khúc hội Liêm Trinh hãm thì dễ chết non,
Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, lại không có cát tinh tụ tập thì công danh lận đận).
[An Mệnh tại hai cung Tị Hợi gặp Liêm Trinh hội Xương Khúc thì xảy ra cơ sự như vậy (chết yểu), người tuổi Tân tối kị. Nếu như gặp được hai sao tài ấn là Vũ Khúc và Thiên Tướng thì lại phản chuyển thành đắc quyền mà chủ quý.
Như Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, có thêm sát tinh thì công danh tất sẽ không có thành tựu. Hoặc có chính tinh cát hóa gặp Không Kiếp nơi Mệnh và hạn cũng chủ chuyên cần đèn sách mà chẳng được thành đạt].
Sinh xứ phùng Không do như bán thiên chiết sí,
Mệnh trung ngộ Kiếp kháp như lãng lý hành thuyền.
(Mệnh có Địa Không thì giống như giữa lưng trời gãy cánh,
Địa Kiếp thủ Mệnh thì đúng là như đi thuyền trên sóng nước, tròng trành lênh đênh).
[Mệnh hạn gặp Không tọa thủ thì luận là bình thường, càng sợ lúc trung niên lại gặp nó, nếu mà bỗng vụt phát tài thì tất sẽ chủ hung vong. Như mệnh an tại Hợi cho người sinh giờ Tý và mệnh an tại Tị cho người sinh giờ Ngọ, đều chính là bị như vậy.
Mệnh cung gặp Địa Kiếp tọa thủ thì luận là bình thường, cũng không giữ được tiền tài, nếu có thêm Sát Kị thì rất hung hiểm].
Hạng Vũ anh hùng hạn chí Địa Không nhi táng quốc,
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
(Hạng Vũ anh hùng thế mà hạn đến Thiên Không – tức sao Địa Không của ta, thì mất nước,
Thạch Sùng giàu vậy mà hạn tới Địa Kiếp cũng tan nhà).
[Đại tiểu hạn mà đều gặp Địa Không thì sẽ vậy.
Đại tiểu hạn lâm vào chỗ của Địa Kiếp hãm hay giáp với nó, gặp thêm lưu niên các sát tinh thì tất sẽ hung như thế].
Lã hậu chuyên quyền lưỡng trùng Thiên Lộc Thiên Mã,
Dương phi hảo sắc tam hợp Văn Khúc Văn Xương.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền là do cách lưỡng trùng Lộc Mã,
Dương quý phi đẹp mà dâm là bởi tam hợp có Văn Khúc Văn Xương).
[Lộc Tồn gặp Hóa Lộc cùng với Thiên Mã đồng cung thì là vậy (cách “lưỡng trùng Lộc Mã” được phú quý tột bực).
Mệnh cung cùng với Tài Quan và Thiên Di cung có Xương Khúc hợp chiếu, lại gặp thêm Thái Âm Thiên Cơ thì vừa đẹp vừa dâm.
Thiên Lương ngộ Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm,
Xương Khúc giáp Trì nam mệnh quý nhi thả hiển.
(Thiên Lương với Mã cùng hãm vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện,
Xương Khúc giáp Đan Trì, Quế Trì thì nam Mệnh vừa quý lại vừa vinh hiển).
[Giả như tại 4 cung Dần Thân Tị Hợi an Mệnh gặp Thiên Mã tọa thủ, mà tam phương gặp Thiên Lương hợp chiếu thì vậy (vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện).
Thái Dương là Đan Trì, Thái Âm là Quế Trì, như Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi cung an Mệnh mà có Tả Hữu Xương Khúc giáp ở 2 cung trước sau thì vậy (vào nam mệnh vừa quý vừa vinh hiển)].
Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng,
Trinh cư Mão Dậu định thị công tư lại bối.
(Tử Vi cư Mão Dậu thì thường dễ thoát tục mà đi tu,
Liêm Trinh cư Mão Dậu thì định là phường quan lại cấp thấp).
[Tử Vi là Bắc Cực, nếu như tọa thủ ở cung mệnh mà thêm sát tinh thì chủ tăng đạo, nếu không có sát tinh mà lại có thêm Tả Hữu Khôi Việt thì chủ quý.
Tại Mão Dậu cung mà an Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ, thêm sát tinh thì tất sẽ làm tư lại, bộc dịch (quan lại cấp rất thấp, chân sai vặt) ở chốn công môn].
Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thừa,
Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.
(Tả Phụ và Thiên Phủ đồng cung thì vị trí (ngồi trong triều) rất cao,
Liêm Trinh Thất Sát thủ mệnh thì phiêu đãng chân trời góc biển).
[Tại Thìn Tuất mà an Mệnh, gặp 2 sao ấy (Tả Phụ, Thiên Phủ), thêm tam phương có cát hóa củng chiếu xung chiếu thì tất sẽ ở chỗ quý cực phẩm.
Mệnh an tại Tị Hợi mà gặp 2 sao ấy (Liêm Trinh, Thất Sát), thêm sát tinh, Hóa Kị, Không Kiếp, thì số lang bạt nơi chân trời, chẳng giữ nghiệp nhà, phải gian khổ làm quân nhân hoặc buôn bán ở bên ngoài.
Đặng Thông ngạ tử vận phùng Đại Hao chi hương,
Phu Tử tuyệt lương hạn đáo Thiên Thương chi nội.
(Đặng Thông chết đói là do vận gặp chỗ của Đại Hao,
Khổng Tử bị hết sạch lương thảo là vì hạn vào trong chỗ của Thiên Thương).
[Mệnh mà an tại Tý cung, nhị hạn đi tới hoặc giáp với chỗ đó (chỗ của Thiên Thương), có Đại Hao và gặp thêm các ác diệu thì đói kém, hao phá, chết đói.
Đoán như câu trên].
Linh Xương La Vũ hạn chí đầu hà,
Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử.
(Hạn gặp Linh Xương La Vũ thì dễ gieo mình xuống sông,
Cách Cự Hỏa Kình Dương thì cả đời dễ thắt cổ tự vẫn).
[Các sao ấy giao hội tại hai cung Thìn Tuất, người tuổi Tân Nhâm Kỷ mà nhị hạn đi tới đó thì định là gặp thủy nạn. Nếu thêm các ác sát tinh thì tất sẽ chết ở ngoài đường. Nếu như 4 sao ấy tại Thìn Tuất tọa mệnh thì cũng thế.
Ba sao này tọa thủ ở Thân Mệnh, đại tiểu nhị hạn mà gặp, lại có thêm ác sát thì cứ y vậy mà đoán (dễ tự tử)].
Mệnh lý phùng Không bất phiêu lưu chủ tật khổ,
Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết tắc hình thương.
(Chỗ cung Mệnh mà gặp Không thì nếu chẳng phiêu đãng lưu lạc sẽ bị bệnh tật khốn khổ,
Có cách “Mã đầu đới kiếm” thì không chết non cũng sẽ bị hình phạt, hình khắc, thương tật).
[Như Mệnh cung không có chính tinh, lại có Địa Không đơn thủ, thêm tam hợp có sát tinh, Hóa Kị, thì cứ y như thế mà đoán, có thêm cát tinh thì cũng đỡ hơn.
Kình Dương cư ngọ thủ Mệnh (gọi là “Mã đầu đới kiếm”), ở Mão thì là thứ cách, ở Dậu cũng là thứ cách, đó chính là chỗ mà Kình Dương lạc vào hãm địa, ở Dần Thân Tị Hợi đối với Đà La thì cũng giống vậy, nếu như ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì không e ngại].
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc,
Xương Tham cư mệnh phấn cốt toái thi.
(Ở chỗ Tý Ngọ có Phá Quân thì được tăng tiến về tài lộc, quan chức,
Tham Lang Văn Xương đồng cung lạc hãm thì dễ bị tai nạn tan xương nát thịt).
[Mệnh mà an ở hai cung Tý Ngọ, có Phá Quân tọa thủ, thêm cát tinh thì tất nhiên được vị trí tước hàm cỡ bực Tam Công.
Như an Mệnh ở hai cung Tị Hợi, gặp Tham Xương tọa thủ, thêm sát tinh với Hóa Kị thì yểu vong, hoặc ở Quan Lộc cung mà gặp như vậy thì cũng dễ có tai nạn giống thế].
Triều Đẩu ngưỡng Đẩu tước lộc vinh xương,
Văn Quế Văn Hoa cửu trùng quý hiển.
(Chầu và ngưỡng về chỗ của Tử Phủ thì thường được hưng thịnh vinh hoa về tước lộc,
Có Xương Khúc miếu đắc thì được quý hiển tột bực).
[Thất Sát thủ mệnh ở vượng cung thì là vậy, như ở Tý Ngọ Dần Thân là triều Đẩu, ở tam phương chiếu về là ngưỡng Đẩu, nhập cách thì chủ được phú quý, nếu ở Thiên Di hoặc Quan Lộc thì không luận như thế.
Văn Xương là Văn Quế, Văn Khúc là Văn Hoa, như an Mệnh tại Sửu Mùi mà gặp Xương Khúc, gặp thêm hóa cát củng chiếu hoặc giáp cung thì chính là được hiển quý vậy. Nếu mà không có cát hóa thì cũng vô dụng].
Đan Trì, Quế Trì tảo toại thanh vân chi chí,
Hợp Lộc củng Lộc định vi cự phách chi thần.
(Gặp Nhật Nguyệt miếu vượng thì được toại lòng thỏa chí tang bồng,
Được Lộc hợp và củng chiếu thì nhất định là người tài năng cự phách).
[Đan Trì là Nhật ở Mão Thìn Tị, Quế Trì là Nguyệt nhập vào chỗ Dậu Tuất Hợi, sáu cung ấy mà Thân Mệnh gặp được thì được xứng ý toại lòng, cũng cần phải có Xương Khúc Khôi Việt.
Lộc Tồn với Hóa Lộc tại Tài cung và Quan cung, hợp chiếu vào Mệnh, hoặc Mệnh tọa Lộc mà Thiên Di có Lộc củng chiếu cũng chủ phú quý. Phép bí truyền nói “hợp Lộc củng Lộc đôi kim tích ngọc, tước vị cao thiên y tử bào” (có cách “hợp Lộc củng Lộc” thì giàu có vô cùng, tước vị cao tột bực)].
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa,
Phụ Bật ngộ Tài Quan y phi trứ tử.
(Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc thì ra đời được vinh hoa phú quý,
Ở Tài Quan mà có Tả Hữu thì được mặc áo tía, áo lụa đào – ám chỉ quan phục cao cấp).
Như ở Mệnh Thân có chính tinh hóa cát (Khoa Quyền Lộc), gặp Tả Hữu đến chầu từ tam phương thì được quan tước cao].