ĐỜI TỐNG – SỤ CHÍN MUỒI CỦA THUẬT TRẠCH CÁT
Thuật trạch cát thời Tống, có hai cuôn lịch thư khá hoàn chỉnh. Một là cuốn lịch ghi đầy đủ, năm Ung Hy thứ ba thời Bắc Tống (năm 986), hai là cuốn Hội thiên lịch thư năm Bảo Hựu thứ năm thời Nam Tống (1256) (Hiện lưu giữ ở thư viện Bắc Kinh – đây là cuốn lịch hoàn chỉnh nhất, sớm nhất hiện còn được lưu giữ của Trung Quốc).
Tiêu đề hàng thứ nhất của chú lịch năm Ung Hy thứ ba như
“Năm Ung Hy thứ ba – Bính Ngọ – lịch ngày ghi đầy đủ và và lời tựa Can Hỏa – Chi Thổ – Nạp Âm Thổ – gồm 354 ngày”.
Từ hàng thứ hai trở xuống là lời tựa, nội dung lời tựa rất phong phú. Lịch chú trước tiên nói lên tầm quan trọng của việc lịch ngày cần tuân theo bí pháp của Âm Dương, đặc biệt ân cần dặn dò người ta phải hết sức tránh Thái tuế trong việc động thổ xây nhà, ghi phương vị các niên thần và Thái tuế, chỉ rõ những phương lành, phương dữ của việc xây dựng nhà cửa trong năm, tiếp đến phương vị, thời gian của Thái tuế tướng quân. Cuối cùng là Cửu tinh của ngày, tháng hay mệnh cung Nam nữ,…
Sau bài tựa là hình phương vị cửu tinh
Dưới hình phương vị cửu tinh có ghi những hàng chữ sau:
“Trong các màu cửu phương, hai phương màu tía, màu trắng xây dựng cửa nhà, sinh quý nhân, thăng quan tiến chức, mau đươc tiền của, bầy tiệc cưới xin, mọi việc thông đạt, gia đạo yên vui. Thơ rằng:
Thượng lợi hưng công tử bạch phương
Bích lục chi địa hoạn ung thương
Xích Hoàng chi phương tạo tật bệnh
Hắc phương động thổ chủ hung tang
Ngũ tính xúc năng y thử dụng
Nhất niên chi nội lạc đường đường
……
Dịch là:
Rất lợi khi sửa hướng tím – trắng
Biếc lục nơi này sợ nhọt thương
Đỏ, vàng phương ấy hay tật bệnh
Phương đen động thổ chử hung tang
Ai ai nhớ lấy mà vận dụng
Trong vòng một năm thuận đủ đường
……
Sau hình phương vị cửu tinh là ngày thất diệu lành dữ nên kỵ (ngưòi xưa coi Mặt trời, Mặt trăng, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là thất diệu, tương đương vói các ngày chủ nhật, thứ hai, thứ ba,… thời nay) Tiếp đó là các ngày Nguyệt hư, Bát khôi, Cửu Tiên, Cửu khảm, Thiên lý, Địa lý, Sóc nhật, Hối nhật, Vãng vong, Quy kỵ,… lành dữ nên kiêng tránh.
Sau đó là các tháng thiếu đủ trong năm, như tháng giêng đủ tháng hai thiếu,…
Cuối cùng là lịch từng ngày của tháng.
Sang đời Thanh thì thuật trạch cát và Hoàng lịch phát triển chín muồi – là thời kỳ rất hoàn thiện về hình thức. Bấy giờ, triều đình nhà Thanh lệnh cho khâm thiên giám mỗi năm soạn một cuốn lịch chọn lọc mà sau này người ta gọi là Hoàng lịch, thông thư. Nếu so sánh với chú thích lịch đời Thanh sẽ thấy rõ hơn.
Lấy Ví dụ, Hiến thư năm Càn Long 60 (tức năm 1795). Sách có 21 trang, trang 1 ghi giờ của 24 tiết khí ở đô thành phủ Thuận Thiên – trang 2 bản đồ phương vị niên thần.
Trang 3 đến trang 5 ghi giờ khắc và tiết khí các tỉnh. Trang 6 đến trang 18 ghi lịch ngày của 12 tháng. Trang 19 đến trang 20 bảng ghi năm (cũng chính là bảng Mệnh cung nam nữ). Trang cuối cùng ghi tên các nhân viên Khâm thiên giám.
So sánh hai loại lịch ta thấy:
– Cả hai đều dùng Cửu tinh thuật, không những để phốỉ năm, còn dùng để phối tháng, phối ngày. Lịch Ung Hy năm thứ ba trong lời tựa đã nói: “Năm nay (Cửu tinh): năm khởi ở cung 6; tháng khởi cung ở cũng 5; ngày khởi cung ở cung 9.
– Cả hai đều dùng 3 hệ thông thần sát lớn, là hệ thông thần sát Thái tuế, hệ thống thần sát Nguyệt lệnh, hệ thống thần sát Can chi Ngũ hành, từ đó suy đoán lành dữ, nên kiêng kỵ trong năm, tháng và từng ngày.
– Trong lịch 12 tháng đều bao gồm 24 tiết khí, 72 ngày Hậu, Sóc, Vọng, Thượng — Hạ Huyền, giờ mặt trời mọc, lặn, dưới mỗi ngày đều ghi chú Can chi, nạp Âm Ngũ hành, 12 trực và những điều kiêng kị. Đó là cách thức cơ bản ghi chú lịch thời xưa.
Nhiều sách lịch có cách trình bày đẹp mắt, chữ ngay ngắn vuông vắn.
Do đó có thể thấy, thuật trạch cát ra đời từ thời Đường, chín muồi vào thời Tống. Hình thức biểu hiện của thuật trạch cát – Trạch cát Hoàng Lịch cơ bản hình thành vào thời Bắc Tống, hoàn thiện vào thời Nam Tống.
(Theo sách Bí ẩn về chọn ngày của Nhà xuất bản Hà Nội)