Thất Sát Triều Đẩu cách
七杀朝斗格
七杀守命, 入子午寅申宫, 与禄存, 科权禄, 左右, 昌曲, 魁钺加会为本格. 七杀在寅申宫入庙, 在子午宫旺地. 七杀在申, 午坐命为“朝斗”, 在寅, 子坐命为“仰斗”. 此格带有杀气, 自己发达而必有另一部份人一遭殃, 或因此而有不少人死在他的手下. 入此格者, 多主武职显贵, 统领百万雄师, 不然也是公司创始人, 商界英才, 大富无疑. 有吉星加会, 又有凶星加会则属破格, 主大起大落, 暴发暴败, 纵然一时发达也难长久保持, 并且结局大多不佳. 不会吉星, 则减为平常之格, 不见吉星而见凶曜同宫加会, 则为劣等命式, 主凶恶, 残疾, 奔波, 犯罪, 牢狱, 又恐寿难长永.
Thất Sát thủ Mệnh, nhập Tý Ngọ Dần Thân cung, dữ Lộc Tồn, Khoa Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt gia hội vi bổn cách. Thất Sát tại Dần Thân cung nhập miếu, tại Tý Ngọ cung vượng địa. Thất Sát tại Thân, Ngọ tọa Mệnh vi “Triều Đẩu” , tại Dần, Tý tọa Mệnh vi “Ngưỡng Đẩu” . Thử cách đái hữu sát khí, tự kỷ phát đạt nhi tất hữu lánh nhất bộ phân nhân nhất tao ương, hoặc nhân thử nhi hữu bất thiểu nhân tử tại tha đích thủ hạ. Nhập thử cách giả, đa thiển vũ chức hiển quý, thống lĩnh bách vạn hùng sư, bất nhiên dã thị công ti sáng thủy nhân, thương giới anh tài, đại phú vô nghi. Hữu cát tinh gia hội, hựu hữu hung tinh gia hội tắc thuộc phá cách, thiển đại khởi đại lạc, bạo phát bạo bại, túng nhiên nhất thời phát đạt dã nan trường cửu bảo trì, tịnh thả kết cục đại đa bất giai. Bất hội cát tinh, tắc giảm vi bình thường chi cách, bất kiến cát tinh nhi kiến hung diệu đồng cung gia hội, tắc vi liệt đẳng Mệnh thức, thiển hung ác, tàn tật, bôn ba, phạm tội, lao ngục, hựu khủng thọ nan trường vĩnh.
诗曰:
格名朝斗贵无疑, 入庙须教寿福齐. 烈烈重重身显耀, 平生安稳好根基.
七杀寅申子午宫, 四夷拱手服英雄. 魁钺左右文昌会, 科禄名高食万钟.
Thi viết:
Cách danh triều đấu quý vô nghi, nhập miếu tu giáo thọ phúc tề. Liệt liệt trọng trọng thân hiển diệu, bình sinh an ổn hảo căn cơ.
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung, tứ di củng thủ phục anh hùng. Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội, Khoa Lộc danh cao thực vạn chung.
经云:“七杀朝斗, 爵禄荣昌”, “七杀寅申子午, 一生爵禄荣昌”, “朝斗仰斗, 爵禄荣昌”, “七杀守命, 庙旺, 有谋略, 见紫微加见诸吉, 必为大将”, “七杀守命, 得左右昌曲拱照, 掌生杀之权, 富贵出众”, “七杀入命身宫, 见吉, 亦必历受艰辛”.
Kinh vân:
“Thất Sát Triều Đẩu, tước lộc vinh xương” ,
“Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ, nhất sinh tước lộc vinh xương” ,
“Triều Đẩu Ngưỡng Đẩu, tước lộc vinh xương” .
“Thất Sát thủ Mệnh, miếu vượng, hữu mưu lược, kiến tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng” .
“Thất sát thủ Mệnh, đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xích chúng” .
“Thất Sát nhập Mệnh Thân cung, kiến cát, diệc tất lịch thụ gian tân” .
如:
墨索里尼, 乾造1883癸未年六月二十六日未时生, 七杀, 禄存在子宫坐命, 官禄宫破军化禄, 故其人能平步登云, 掌握国家政权. 辅弼昌曲不会, 孤家寡人之象, 加会地劫, 天空, 火星, 故寿数有限, 必遭凶死. 墨索里尼为意大利独裁者, 意大利法西斯党党魁, 早年为新闻记者, 社会党党员, 第一次世界大战后, 组织法西斯党, 1922壬戌年发动“进军罗马”的政变, 夺取政权, 建立法西斯独裁统治, 对内镇压民主运动和其它党派, 对外侵略埃塞俄比亚, 武装干涉西班牙, 占领阿尔巴尼亚. 1940庚辰追随法西斯德国参加第二次世界大战. 1943癸未, 由于军事失利和国内反法西斯运动高涨, 墨索里尼的独裁政权垮台, 墨索里尼也被囚禁, 但后又被德国伞兵劫走, 又在意大利北部充当德占区傀儡政权头子. 1945乙酉年被意大利游击队捕获, 于4月28日申时, 连同他的情妇一同被处决. (癸未己未甲戌辛未, 七岁)
Như:
Mặc Tác Lý Ni, càn tạo 1883 Quý vị niên Lục Nguyệt nhị thập lục nhật vị thời sanh, Thất Sát, Lộc Tồn tại Tý cung tọa Mệnh, Quan Lộc cung Phá Quân Hóa Lộc, cố kì nhân năng bình bộ đăng vân, chưởng ác quốc gia chánh quyền. Phụ Bật Xương Khúc bất hội, cô gia quả nhân chi tượng, gia hội Địa Kiếp, Thiên Không, Hỏa Tinh, cố thọ số hữu hạn, tất tao hung tử. Mặc Tác Lý Ni vi Ý Đại Lợi độc tài giả, Ý Đại Lợi pháp tây tư đảng đảng khôi, tảo niên vi tân văn kí giả, xã hội đảng đảng viên, đệ nhất thứ thế giới đại chiến hậu, tổ chức pháp tây tư đảng, 1922 nhâm tuất niên phát động “tiến quân La Mã” đích chánh biến, đoạt thủ chánh quyền, kiến lập pháp tây tư độc tài thống trị, đối nội trấn áp dân chủ vận động hòa kì tha đảng phái, đối ngoại xâm lược Ai Tái Nga Tỉ Á, vũ trang cán thiệp tây ban nha, chiếm lĩnh A Nhĩ Ba Ni Á. 1940 Canh thần truy tùy pháp tây tư đức quốc tham gia đệ nhị thứ thế giới đại chiến. 1943 Quý vị, do ư quân sự thất lợi hòa quốc nội phản pháp tây tư vận động cao trướng, mặc tác lý ni đích độc tài chánh quyền khỏa đài, Mặc Tác Lý Ni dã bị tù cấm, đãn hậu hựu bị đức quốc tản binh kiếp tẩu, hựu tại Ý Đại Lợi bắc bộ sung đương đức chiếm khu khôi lỗi chính quyền đầu tử. 1945 Ất Dậu niên bị Ý Đại Lợi du kích đội bộ hoạch, ư 4 nguyệt 28 nhật thân thời, liên đồng tha đích tình phụ nhất đồng bị xử quyết. (Quý Mùi Kỷ Mùi Giáp Tuất Tân Mùi, thất tuế)
____________________________________________________
Thất Sát Triều Đẩu cách
Thất Sát thủ Mệnh, vào các cung Tý Ngọ Dần Thân, cùng với Lộc Tồn, Khoa Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt hội hợp chính là cách gọi là Thất Sát Triều Đẩu này. Thất Sát miếu tại cung Dần Thân, vượng địa ở cung Tý Ngọ. Thất Sát tại Thân, mệnh an tại Ngọ gọi là “Triều Đẩu”, (Thất Sát) tại Dần, Mệnh an tại Tý gọi là “Ngưỡng Đẩu”. Người có cách này thường mang nhiều sát khí trên mặt, tự mình phát đạt nhưng không tránh khỏi có lần thất bại, hoặc cũng là nguyên nhân mà không ít người bị chết dưới thủ hạ của mình. Người có cách này, da phần hiển đạt về binh nghiệp, chỉ huy quân đội hùng mạnh, tuy không phải là người sáng lập công ty, nhưng cũng là tài năng trong thương giới, chắc chắn đại phú. Có nhiều cát tinh hội hợp, lại có hung tinh hội hợp trở thành phá cách, chủ thường hay thay đổi, lên rất nhanh mà xuống cũng nhanh, thậm chí có lúc phát đạt mà cũng không thể giữ cho lâu dài, kết cục đều là không tốt. Không có cát tinh hội hợp, chỉ là cách bình thường, không có cát tinh nhưng lại có sao hung đồng cung hội hợp, chắc chắn là hạng nghèo hèn, chủ hung ác, tàn tật, bôn ba, phạm tội, lao ngục, tuổi thọ không cao.
Thơ viết:
Cách danh Triều Đẩu quý vô nghi,
Nhập miếu tu giáo thọ phúc tề.
Liệt liệt trọng trọng thân hiển diệu, Một thân hiển diệu
Bình sinh an ổn hảo căn cơ. Đời sống an vui rất vững vàng.
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung,
Tứ di củng thủ phục anh hùng.
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội,
Khoa lộc danh cao thực vạn chung.
Tạm dịch:
Cách gọi Triều Đẩu quý vô cùng,
Được vào miếu phúc thọ song toàn.
Một thân danh tiếng đầy quyền lực,
Đời sống an vui rất vững vàng.
Thất Sát tại Dần Thân Tý Ngọ,
Anh hùng khắp chốn phải phục tùng.
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội,
Danh cao bỗng lộc thật vô cùng.
Sách viết:
” Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh xương”, ý nói người có cách này được phong tước vị, bỗng lộc cao.
“Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ, nhất sinh tước lộc vinh xương” ý cũng giống câu trên.
“Triều đẩu ngưỡng đẩu, tước lộc vinh xương”. Ý cả hai cách Triều Đẩu, Ngưỡng Đẩu cũng đều có địa vị, bổng lộc cao.
“Thất Sát thủ Mệnh, miếu vượng, hữu mưu lược, kiến Tử Vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng” là Mệnh Thất Sát miếu vượng là người có mưu lược, gặp Tử Vi thêm nhiều cát tinh, chắc chắn làm đến đại tướng.
“Thất Sát thủ Mệnh, đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng” là Mệnh Thất Sát, được Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, là người nắm quyền sinh sát, giàu sang tột bực.
“Thất Sát nhập Mệnh Thân cung, kiến cát, diệt tất lịch thụ gian tân” tức là Thất Sát nhập vào cung Mệnh hay cung Thân, tuy gặp cát tinh, cũng có lúc phải chịu gian nan, cùng khổ.
Như lá số:
Mussolini, Nam mạng sanh ngày 26 tháng 06 năm Quý Mùi (1883) giờ Mùi, Thất Sát, Lộc Tồn thủ Mệnh tại cung Tý, cung Quan Lộc có Phá Quân Hoá Lộc, là người có tài một bước lên mây, nắm giữ quyền lực quốc gia. Do không có Phụ Bật Xương Khúc hội hợp là tượng vua đơn độc, mà lại có Địa Kiếp, Thiên Không, Hoả Tinh hội hợp, cho nên tuổi thọ có giới hạn, chắc chắn gặp hoạ chết thảm. Mussolini là nhà độc tài của nước Ý Đại Lợi, Tống Bí Thư đảng Phát Xít Ý Đại Lợi, trước đó vài năm là phóng viên nhà báo, đảng viên đảng Xã Hội, sau Đệ Nhất Thế Chiến, mới lập ra đảng Phát Xít, năm 1922 Nhâm Tuất phát động phong trào “Tiến Quân La Mã” nhằm mục đích đảo chính, cướp đoạt chính quyền, thành lập chế độ độc tài phát xít, đối nội thì trấn áp các đảng phái dân chủ vận động hoà bình, đối ngoại tiến hành xâm lược Ethiopia, can thiệp vũ trang vào Tây Ban Nha, chiếm Albania. Năm 1940 Canh Thìn cùng với đảng Phát Xít Đức tham gia Đệ Nhị Thế Chiến. Năm 1943 Quý Mùi, bởi thất bại quân sự cùng với cao trào vận động chống Phát Xít trong nước lên cao, chế độ độc tài của Mussolini đã bị sụp đổ, Mussolini bị cầm tù, sau đó được quân Nhảy Dù Đức Quốc cướp thoát, đến miền Bắc Ý Đại Lợi mà Đức đang chiếm dóng để hoạt động như là thủ lĩnh của chính quyền bù nhìn ở đây. Năm 1945 Ất Dậu bị lực lượng du kích Ý Đại Lợi bắt, vào ngày 28 tháng 04 giờ Thân, cùng với tình nhân bị xử quyết chung một lượt.
(Bát tự: Quý Mùi, Kỷ Mùi, Giáp Tuất Tân Mùi, 7 tuổi khởi vận).
化龙, 乾造1874甲戌年十月十九日亥时生, 七杀在子宫坐命, 命宫有铃星, 身 命同有劫空二煞, 本不足奇, 惟其身宫三方四正会化禄化权化科, 亦有一时之显达, 但命宫有凶星, 主一生不顺, 且寿命不长, 于虚45岁时凶死. 汤化龙为光绪时进士, 留学日本, 1909己酉年被推为湖北咨议局议长, 武昌起义后, 攫取湖北军政府民政长职位, 排挤革命党人, 次年为众议员院长, 拥护袁世 凯, 同国民党对抗. 1914甲寅年任教育总长, 次年辞职, 1917年被段祺瑞任命为内务总长. 因受孙中山为首的南方护法军政府的通辑, 被迫去职. 段祺瑞内阁复活时不受重用, 怀着嫉恨出国, 1918年戊午, 运行犯“七杀重逢”之凶限, 在加拿大被国民党籍华侨刺死. (甲戌乙亥戊子癸亥, 三岁)
Thang Hóa Long, càn tạo 1874 Giáp Tuất niên Thập Nguyệt thập cửu nhật Hợi thời sanh, Thất sát tại Tý cung tọa Mệnh, Mệnh cung hữu Linh Tinh, Thân Mệnh đồng hữu Kiếp Không nhị Sát, bổn bất túc kì, duy kỳ thân cung tam phương tứ chính hội Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, diệc hữu nhất thời chi hiển đạt, đãn Mệnh cung hữu hung tinh, thiển nhất sinh bất thuận, thả thọ mệnh bất trường, ư hư 45 tuế thời hung tử. Thang Hóa Long vi Quang Tự thời tiến sĩ, lưu học Nhật Bản, 1909 Kỷ Dậu niên bị thôi vi Hồ Bắc tư nghị cục nghị trưởng, Vũ Xương Khởi Nghĩa hậu, quặc thủ Hồ Bắc quân chính phủ dân chánh trường chức vị, bài tễ cách mệnh đảng nhân, thứ niên vi chúng nghị viên viện trưởng, ủng hộ viên thế khải, đồng Quốc Dân Đảng đối kháng. 1914 Giáp dần niên nhiệm giáo dục tổng trường, thứ niên từ chức, 1917 niên bị đoạn kì thụy nhiệm Mệnh vi nội vụ tổng trường. Nhân thụ Tôn Trung Sơn vi thủ đích nam phương Hộ Pháp Quân chánh phủ đích thông tập, bị bách khứ chức. Đoạn kì thụy nội các phục hoạt thời bất thụ trọng dụng, hoài trước tật hận xích quốc, 1918 niên mậu ngọ, vận hành phạm “thất sát trùng phùng” chi hung hạn, tại Gia Nã Đại bị Quốc Dân đảng tịch Hoa Kiều thích tử. (Giáp Tuất Ất Hợi Mậu Tý Quý Hợi, tam tuế)
Thang Hóa Long, nam mạng sanh ngày 19 tháng 10 năm Giáp Tuất (1874) giờ Hợi, cung Mệnh tại Tý có Thất Sát, Linh Tinh, Thân Mệnh có Kiếp Không, vốn dĩ không đáng là cách đặc biệt, chỉ vì cung thân hội hợp Lộc Quyền Khoa ở tam phương tứ chính, nên cũng được một thời hiển đạt, do cung mệnh có hung tinh, chủ một đời không thuận lợi, cũng như thọ mệnh không cao, vào lúc 45 tuổi bị chết thảm. Thang Hoá Long là Tiến Sĩ thời vua Quang Tự, du học Nhật Bản, năm 1909 (Kỷ Dậu) được bầu làm Nghị Trưởng Hồ Bắc Tư Nghị cục, sau khởi nghĩa Vũ Xương, nắm lấy chức vị đứng đầu chánh quyền dân sự của quân chánh phủ Hồ Bắc, loại bỏ đảng phái cách mạng, năm sau làm Viện Trưởng Quốc Hội, ủng hộ Viên Thê Khải, cùng đối kháng với Quốc Dân Đảng, năm 1914 (Giáp Dần) nhậm chức vụ Tổng Trưởng bộ Giáo Dục, đến năm sau từ chức, năm 1917 (Đinh Tỵ) được Đoàn Kỳ Thuỵ chỉ định làm Tổng Trưởng bộ Nội Vụ. Nhân vì công nhận Tôn Trung Sơn là thủ lĩnh Nam Phương Hộ Pháp Quan Chánh Phủ nên bị ép từ chức. Giúp Nội Các Đoàn Kỳ Thuỵ được phục hoạt giờ không được trọng dụng, hết một tấn tuồng trân trọng và ganh ghét, năm 1918 (Mậu Ngọ), vận hành phạm “Thất Sát trùng phùng” ấy là hạn xấu, ở Gia Nã Đại bị Hoa Kiều thuộc Quốc Dân Đảng ám sát.
(Bát tự: Giáp Tuất Ất Hợi Mậu Tý Quý Hợi, 3 tuổi khởi vận).
文天祥, 乾造1236丙申年五月初二日子时生, 七杀在午宫坐 命, 命宫有右弼吉星, 官禄宫有文曲化科, 七杀朝斗, 平步青云, 为大贵之格. 二十一岁1256丙辰年中状元. 本命遭凶煞会聚而破格, 命宫擎羊落陷, 主人性格刚硬, 宁死不屈, 且三方会火星铃星, 福不全美, 定属寿夭之格, 有牢狱之灾, 必遭凶死. 文天祥历任刑部郎官, 知瑞赣等州. 1275乙亥年元兵东下, 文天祥在赣州组织义军, 入卫临安, 次年任右丞相兼枢密史, 都督诸路军马, 往元军营中谈判, 被扣留. 后于镇江脱险, 流亡至通州, 由海路南下, 至福建与张世杰, 陆秀夫等人坚持抗元. 1277年在广东海丰被俘, 次年送至大都(今北京), 迭经威逼利诱, 宁死不屈, 1283年(农历壬午年)四十七岁, 逢遇“羊陀迭并”, “七杀重逢”, 腊月初九日于柴市英勇就义. 遗著有《指南录》, 《文山先生全集》, 其《过零丁洋》, 《正气歌》这两首诗尤为后世所传诵. (丙申甲午丁巳庚子, 六岁)
Văn Thiên Tường, càn tạo 1236 Bính Thân niên Ngũ Nguyệt sơ nhị nhật Tý thời sanh, Thất Sát tại Ngọ cung tọa Mệnh, Mệnh cung hữu Hữu Bật cát tinh, Quan Lộc cung hữu Văn Khúc Hóa Khoa, Thất Sát Triều Đẩu, bình bộ thanh vân, vi đại quý chi cách. Nhị thập nhất tuế 1256 Bính Thìn niên trung trạng nguyên. Bổn Mệnh tao hung sát hội tụ nhi phá cách, Mệnh cung Kình Dương lạc hãm, chủ nhân tính cách cương ngạnh, ninh tử bất khuất, thả tam phương hội Hỏa Tinh Linh Tinh, phúc bất toàn mỹ, định thuộc thọ yêu chi cách, hữu lao ngục chi tai, tất tao hung tử. Văn Thiên Tường lịch nhậm Hình Bộ lang quan, tri thụy cống đẳng châu. 1275 Ất Hợi niên nguyên binh đông hạ, Văn Thiên Tường tại cống châu tổ chức nghĩa quân, nhập vệ lâm an, thứ niên nhậm hữu thừa tướng kiêm xu mật sử, đô đốc chư lộ quân mã, vãng nguyên quân doanh trung đàm phán, bị khấu lưu. Hậu ư trấn giang thoát hiểm, lưu vong chí thông châu, do hải lộ nam hạ, chí phúc kiến dữ trương thế kiệt, lục tú phu đẳng nhân kiên trì kháng nguyên. 1277 Niên tại Quảng Đông Hải Phong bị phu, thứ niên tống chí đại đô (kim bắc kinh) , điệt kinh uy bức lợi dụ, ninh tử bất khuất, 1283 niên (nông lịch Nhâm Ngọ niên) tứ thập thất tuế, phùng ngộ “Dương Đà Điệt Tịnh” , “Thất Sát trùng phùng” , lạp nguyệt sơ cửu nhật ư sài thị anh dũng tựu nghĩa. Di trứ hữu 《chỉ nam lục》 , 《văn sơn tiên sinh toàn tập》 , kì 《quá linh đinh dương》 , 《chính khí ca》 giá lưỡng thủ thi vưu vi hậu thế sở truyền tụng. (Bính Thân Giáp Ngọ Đinh Tỵ Canh Tý, lục tuế)
Văn Thiên Tường, nam mạng, sanh ngày mùng 2 tháng 5 năm Bính Thân (1236) giờ Tý, Mệnh tại Ngọ có Thất Sát, Hữu Bật, cung quan Lộc có Văn Khúc Hoá Khoa, “Thất Sát Triều Đẩu, bình bộ thanh vân” là cách đại quý. Năm 21 tuổi (1256 – Bính Thìn) đậu Trạng Nguyên. Mệnh bị phá cách bởi hung sát hội tụ, Kình Dương lạc hãm tại Mệnh chủ tính cách cương ngạnh, thà chết chứ không chịu khuất phục, lại thêm tam phương hội Hoả Tinh, Linh Tinh, nên phúc không hoàn mỹ, là cách yểu mạng, có tai hoạ tù ngục, tất phải chết thảm. Văn Thiên Tường nhậm chức Hình Bộ Lang Quan, cai quản Cống Châu (tỉnh giang Tây bây giờ). Năm Ất Hợi (1275) quân Nguyên chiến thắng Trung Nguyên, Văn Thiên Tường tổ chức nghĩa quân tại Cống Châu, tham gia bảo vệ Lâm An, năm sau nhậm chức Hữu Thừa Tướng kiêm Xu Mật Sử, tổng chỉ huy tất cả quân đội các miền, đến doanh trại quân Nguyên để đàm phán, bị câu lưu. Sau trốn thoát ở Trân Giang, lưu vong khắp các châu, theo đường biển trốn xuống miền Nam, đến Phúc Kiến cùng Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu kiên trì kháng chiến chống quân Nguyên. Năm Đinh Sửu (1277) bị bắt tai Hải Phong – Quảng Đông, năm sau giải đến kinh đô (Bắc Kinh ngày nay), nhiếu lần chịu đựng sự bức ép quy hàng, thà chết không khuất phục, năm Nhâm Ngọ (1283) được 47 tuổi, gặp phải “Dương Đà điệt tịnh”, “Thất Sát trùng phùng”, cho nên mùng 9tháng Chạp đã anh dũng hy sinh. Sáng tác của ông còn lưu lại như: “Chỉ Nam Lục”, “Văn Sơn Tiên Sinh Toàn Tập”, hoặc là “Quá Linh Đinh Dương”, “Chính Khí Ca” đây là hai bài thơ được người đời sau thượng đọc nhất.
(Bát tự: Bính Thân Giáp Ngọ Đinh Tỵ Canh Tý, 6 tuổi khởi vận).
(按: 关于国家命运与个人命运之关系, 虽难索解, 但于此可见一斑. “山河破碎风飘絮, 身世浮沉雨打萍”, 按常理推, 假设文天祥读书无用做不成官, 或假设元兵不攻宋, 或假设文天祥临阵逃脱遁迹山野, 或者假设文天祥被俘后立 马投降, 等等等等, 这些假设如成立, 文天祥绝不会死. 但是要知道, 文天祥之命, 自当招奇灾大祸, 本属凶死之格. 文天祥的一生, 虽乃人事, 实乃天命, 天命不可违. 所以, 文天祥就是文天祥, 他杀身成仁, 光照千古, 百世流芳!洪承畴, 汪精卫, 周佛海之流, 又如何哉. )
(Án: Quan ư quốc gia mệnh vận dữ cá nhân mệnh vận chi quan hệ, tuy nan tác giải, đãn ư thử khả kiến nhất ban. “Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ, thân thế phù trầm vũ đả bình” , án thường lý thôi, giả thiết Văn Thiên Tường độc thư vô dụng tác bất thành quan, hoặc giả thiết nguyên binh bất công tống, hoặc giả thiết Văn Thiên Tường lâm trận đào thoát độn tích sơn dã, hoặc giả giả thiết Văn Thiên Tường bị phu hậu lập mã đầu hàng, đẳng đẳng đẳng đẳng, giá ta giả thiết như thành lập, Văn Thiên Tường tuyệt bất hội tử. Đãn thị yếu tri đạo, Văn Thiên Tường chi mệnh, tự đương chiêu kì tai đại họa, bổn thuộc hung tử chi cách. Văn Thiên Tường đích nhất sinh, tuy nãi nhân sự, thật nãi thiên mệnh, thiên mệnh bất khả vi. Sở dĩ, Văn Thiên Tường tựu thị Văn Thiên Tường, tha sát thân thành nhân, quang chiếu thiên cổ, bách thế lưu phương!hồng thừa trù, Uông Tinh Vệ, chu Phật Hải chi lưu, hựu như hà tai.)
(Nghiệm lý: Về quan hệ vận mệnh đất nước và số phận cá nhân, dù rằng rất khó tìm ra câu giải đáp, tuy nhiên điều này có thể nhìn thấy được.
“Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ,
Thân thế phù trầm vũ đả bình”.
Quốc gia sụp đổ bông theo gió,
Thân thế nổi trôi tựa cánh bèo.
(Hãy suy xét theo thường lý, giả như Văn Thiên Tường tài học không giỏi chắc sẽ không được làm quan, hoặc giả như quân Nguyên không xâm chiếm nước Tống, hoặc giả như Văn Thiên Tường bỏ trốn vào núi ẩn tích, hoặc giả như Văn Thiên Tường sau khi bị bắt mà chịu đầu hàng, vv… những giả thiết này nếu mà thành sự thật, Văn Thiên Tường chắc chắn không gặp phải cảnh chết. Tuy nhiên, cũng cần hiểu đạo lý, mệnh số của Văn Thiên Tường tự nó đã có dính đến những tai hoạ to lớn, dẫn đến cách chết thảm. Đời sống Văn Thiên Tường, tuy là sự việc của cá nhân, thật ra cũng liên quan đến thiên mệnh (nhiệm vụ do trời sắp đặt) mà nhiêm vụ trời giao cho thì không thể tránh khỏi được. Đó là lý do mà Văn Thiên Tường đã hành động như chính con người Văn Thiên Tường đã tự sát thân mà không chịu khuất phục quân Nguyên, ngàn đời sau còn vẻ vang, lưu truyền danh thơm! Lại như Hồng Thừa Trù, Uông Tinh Vệ, Chu Phật Hải tại sao mà còn lưu truyền).
杜月笙, 乾造1888戊子年七月十五日午时生(见穷通宝鉴), 七杀, 天马在寅宫坐命, 财帛宫贪狼化禄, 对宫(福德)有铃星激发, 左右昌曲交会于财帛福德二宫, 虽出生贫贱, 亦有异路前程, 显赫一时. 凡七杀, 擎羊, 火星(或铃星), 白虎会合于命宫三方四正, 多是黑社会之大头目. 杜月笙少年时为旧上海卖水果的一个小瘪三, 干尽恶事, 以贩卖鸦片起家发迹, 后成为上海法租界青帮头子之一. 烟酒嫖赌这四害祸国殃民, 杜月笙却把它当作珍宝, 苦心经营, 成为上海大亨, 与黄金荣, 张啸林并称上海三大亨. 他又是蒋介石的师兄, 黑社会之大头目, 乃上海翻云覆雨之大流氓, 从贩卖鸦片到“工商界巨子”, 及到“政界头面人物”, 历卢永祥, 孙传芳, 张宗昌, 蒋介石几个“王朝”而不倒, 八面威风, 闻名中外朝野. 1949年上海解放前夕, 杜月笙移居香港, 与京剧名演员孟小冬结婚, 1951年辛卯, 六十四岁, 农历七月十四日申时在香港病死除张啸林被暗杀外, 杜月笙, 黄金荣二人尚得善终, 造化不小. (戊子庚申乙丑壬午, 五岁)
Đỗ Nguyệt Sanh, càn tạo 1888 Mậu Tý niên Thất Nguyệt thập ngũ nhật Ngọ thời sanh (kiến cùng thông bảo giám) , Thất Sát, Thiên Mã tại Dần cung tọa Mệnh, Tài Bạch cung Tham Lang Hóa Lộc, đối cung (Phúc Đức) hữu Linh Tinh kích phát, Tả Hữu Xương Khúc giao hội ư Tài Bạch Phúc Đức nhị cung, tuy xuất sinh bần tiện, diệc hữu dị lộ tiền trình, hiển hách nhất thời. Phàm Thất Sát, Kình Dương, Hỏa Tinh (hoặc Linh Tinh), Bạch Hổ hối hợp ư Mệnh cung tam phương tứ chính, đa thị hắc xã hội chi đại đầu mục. Đỗ Nguyệt Sanh thiếu niên thời vi cựu Thượng Hải mại thủy quả đích nhất cá tiểu biết tam, can tận ác sự, dĩ phiến mại nha phiến khởi gia phát tích, hậu thành vi Thượng hải pháp tô giới thanh bang đầu tử chi nhất. Yên tửu phiêu đổ giá tứ hại họa quốc ương dân, Đỗ Nguyệt Sanh khước bả tha đương tố trân bảo, khổ tâm kinh doanh, thành vi Thượng Hải đại phanh, dữ hoàng kim vinh, trương khiếu lâm tịnh xưng Thượng Hải tam đại phanh. Tha hựu thị Tưởng Giới Thạch đích sư huynh, hắc xã hội chi đại đầu mục, nãi Thượng Hải phiên vân phúc vũ chi đại lưu manh, tùng phiến mại nha phiến đáo “công thương giới cự tử” , cập đáo “chính giới đầu diện nhân vật” , lịch lô vĩnh tường, tôn truyền phương, trương tông xương, Tưởng Giới Thạch kỉ cá “vương triều” nhi bất đảo, bát diện uy phong, văn danh Trung Ngoại triều dã. 1949 Niên Thượng Hải Giải Phóng Tiền tịch, Đỗ Nguyệt Sanh di cư hương cảng, dữ kinh kịch danh diễn viên mạnh tiểu đông kết hôn, 1951 niên tân mão, lục thập tứ tuế, nông lịch thất nguyệt thập tứ nhật Thân thời tại hương cảng bệnh tử trừ trương khiếu lâm bị ám sát ngoại, Đỗ Nguyệt Sanh, hoàng kim vinh nhị nhân thượng đắc thiện chung, tạo hóa bất tiểu. (Mậu Tý Canh Thân Ất Sửu Nhâm Ngọ, ngũ tuế)
Đỗ Nguyệt Sanh, nam mạng, sanh ngày 15 tháng 7 năm Mậu Tý (1888) giờ Ngọ (xem Cùng Thông Bảo Giám), cung Mệnh tại Dần có Thất Sát, Thiên Mã, cung tài bạch có Tham Lang Hoá Lộc, đối cung (phúc đức) có Linh Tinh kích phát, Tả Hữu Xương Khúc giao hội tại hai cung tài bạch và phúc đức, tuy sanh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn, nhưng nhờ con đường sự nghiệp khác biệt nên cũng một thời hiển hách. Thường Thất Sát, Kình Dương, Hoả Tinh (hoặc Linh Tinh), Bạch Hổ hội hợp cung Mệnh và tam phương tứ chính, phần nhiều là kẻ cầm đầu trong xã hội đen. Thuở nhỏ, Đỗ Nguyệt Sanh vốn là đứa ăn mày vô tích sự ở Thượng Hải, không việc ác gì mà hắn chịu từ bỏ, nhờ buôn bán á phiện mà trở thành phát đạt, sau trở thành một thủ lảnh của băng đảng xã hội đen ở Thượng Hải thuộc tô giới Pháp. Mang lại tai hoạ cho đất nước và nhân dân bằng bốn loại thuốc phiện, rượu, đĩ điếm, cờ bạc, Đỗ Nguyệt Sanh đã có tài sản lớn lao, cũng chịu khó đổi qua kinh doanh , trở thành một ông trùm của Thượng Hải, cùng với Hoàng Kim Vinh, Trương Khiếu Lâm xưng là ba ông trùm Thượng Hải. Ông cũng giống như là sư huynh của Tưởng Giới Thạch, thủ lãnh xã hội đen lớn nhứt, cũng là đại lưu manh gian xảo của giang hồ chốn Thượng Hải, từ buôn bán á phiện lần hồi trở thành trùm công thương giới, một người thì trở thành quan to của chính giới, rõ ràng chỉ mấy người như Lô Vĩnh Tường, Tôn Truyền Phương, Trương Tông Xương, cùng Tưởng Giới Thạch đã lập ra một triều đại vững chắc, nổi tiếng trong ngoài đảng cầm quyền cũng như đảng đối lập. Năm 1949 (Kỷ Sửu) buổi chiều trước ngày giải phóng Thượng Hải, Đỗ Nguyệt Sanh đã di cư sang Hương Cảng, cùng với diễn viên Mạnh Tiểu Đông kết hôn, năm 1951 (Tân Mão) được 64 tuổi, chết vì bệnh vào ngày 14 tháng 7 vào giờ Thân tại Hương Cảng, trừ Trương Khiếu Lâm bị ám sát ra, Đỗ Nguyệt Sanh, Hoàng Kim Vinh hai người đều chết tự nhiên, ông trời không hẹp hòi.
(Bát tự: Mậu Tý Canh Thân Ất Sửu Nhâm Ngọ, 5 tuổi khởi vận).
乾 造1970庚戌年九月十一日申时生于海南, 七杀在寅, 与文昌, 右弼同守命宫, 迁移宫紫微, 天府, 有禄存, 天马同守, 格局颇佳, 定然发财无疑. 其人与1995年下半年加入广州某生产保健品和化妆品的传销公司, 进行传销活动, 刚开始月收入就有几千元, 第二年月收入上万元, 到1997年, 月收入达九 万余元. 因为他的“下线”遍布全国各地, 故成天在外奔波, 正应“禄马交驰, 发财远郡”. 绝大多数人搞传销不是上当受骗就是完全是“传”不下去, 倒蚀一把米, 而此人却大获厚利, 实乃命运之关系也. 不过传销在并不适合中国国情, 诈骗和暴利的因素占主要, 据说国家将取缔这种销售方式, 看来此人今后也得改行才行. 某一女命与此造同年同月同日同时生, 因女命七杀, 不为美论, 且文昌在命垣, 主淫贱, 虽有不少钞票花, 却为一暗娼, 第二职业是陪人上床而挣钱.
Càn tạo 1970 Canh Tuất niên Cửu Nguyệt thập nhất nhật Thân thời sinh vu Hải Nam, Thất Sát tại Dần, dữ Văn Xương, Hữu Bật đồng thủ Mệnh cung, Thiên Di cung Tử Vi, Thiên Phủ, hữu Lộc Tồn, Thiên Mã đồng thủ, cách cục pha giai, định nhiên phát tài vô nghi. Kì nhân dữ 1995 niên hạ bán niên gia nhập quảng châu mỗ sinh sản bảo kiện phẩm hòa hóa trang phẩm đích truyền tiêu công ti, tiến hành truyền tiêu hoạt động, cương khai thủy nguyệt thu nhập tựu hữu kỉ thiên nguyên, đệ nhị niên nguyệt thu nhập thượng vạn nguyên, đáo 1997 niên, nguyệt thu nhập đạt cửu vạn dư nguyên. Nhân vi tha đích “hạ tuyến” biến bố toàn quốc các địa, cố thành thiên tại ngoại bôn ba, chính ứng “Lộc Mã Giao Trì, phát tài viễn quận” . Tuyệt đại đa số nhân cảo truyền tiêu bất thị thượng đương thụ biển tựu thị hoàn toàn thị “truyền” bất hạ khứ, đảo thực nhất bả mễ, nhi thử nhân khước đại hoạch hậu lợi, thật nãi Mệnh vận chi quan hệ dã. Bất quá truyền tiêu tại tịnh bất thích hợp Trung Quốc quốc tình, trá biển hòa bạo lợi đích nhân tố chiếm chủ yếu, cứ thuyết quốc gia tương thủ đề giá chủng tiêu thụ phương thức, khán lai thử nhân kim hậu dã đắc cải hàng tài hành. Mỗ nhất nữ Mệnh dữ thử tạo đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thời sanh, nhân nữ Mệnh Thất Sát, bất vi mỹ luận, thả Văn Xương tại Mệnh viên, thiển dâm tiện, tuy hữu bất thiểu sao phiếu hoa, khước vi nhất ám xướng, đệ nhị chức nghiệp thị bồi nhân thượng sàng nhi tranh tiền.
Nam mạng, sanh ngày 11 tháng 9 năm Canh Tuất (1970) giờ Thân tại Hải Nam, có Thất Sát, Văn Xương, Hữu Bật đồng thủ Mệnh tại Dần, đối cung Thiên Di có Tử Vi, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Thiên Mã đòng thủ, cách cục tương đối tốt, số này sẽ phát tài một cách chắc chắn. Khoảng nửa cuối năm 1995, người này gia nhập công ty buôn bán sản phẩm chăm sóc sức khoẻ và mỹ phẩm theo kiểu Kim Tự Tháp, khởi đầu thu nhập cũng được vài ngàn đồng, năm thứ hai thu nhập hàng tháng lên trên vạn (10,000) nhân dân tệ, đến năm 1997 hằng tháng thu nhập gần 100,000 đồng. Do muốn tạo thêm hội viên khắp nơi trên đất nước, cho nên phải bôn ba bên ngoài suốt cả ngày, đây chính là ứng vào cách “Lộc Mã giao trì, phát tài viễn quận”. Đa số những người sáng lập cách buôn bán trực tiếp này không lừa gạt mà chỉ cần kiểu buôn trực tiếp này đừng bị xuống dốc, cho dù một nắm gạo, thì những người này thâu hoạch rất lớn, giàu có đều là quan hệ Mệnh vận cả. Chẳng qua, cách bán hàng trực tiếp không thích hợp vào tình hình Trung Quốc lúc bấy giờ, xem việc này là trò lừa bịp để trục lợi, luật nhà nước cấm buôn bán theo phương thức này, có vẽ như người này sau đó phải chuyển nghề khác. co1 một là số khác nữ Mệnh cùng ngày tháng năm và cả giờ sanh, chỉ bởi vì nữ Mệnh Thất Sát, không phải là lá số đẹp, lại có Văn Xương tại Mệnh chủ dâm tiện, tuy rằng khá giả nhưng rất mê tiền, đây là một gái mại dâm lậu, hành nghề tay trái kiếm tiền bằng cách lên giường với người khác.
林 则徐, 乾造1785乙巳年七月二十六日子时生, 七杀在申宫坐命, 会魁钺, 迁移宫紫微化科, 左右昌曲交会于财帛, 福德二宫, 为民族英雄, 清末政治家. 林则徐提倡经世之学, 任东河河道总督时曾修治黄河, 任江苏巡抚时兴修诸多水利. 1838年戊戌, 在湖广总督任内, 禁止鸦片, 成效卓著, 为禁烟派代表人物. 旋受命为钦差大臣, 赴广东查禁鸦片输入, 次年缴获英美烟贩鸦片二百三十七万斤, 在虎门当众销毁. 并积极筹备海防, 创办义军. 屡次打退英军武装挑衅. 鸦片战争爆发后, 因林则徐的严密设防, 使英军在广东无法得逞, 因受投降派污害, 被革职, 不久充军新疆伊梨, 曾在新疆兴办水利, 垦辟屯田. 1850年庚辰,太平天国起义爆发, 被起用为钦差大臣前往广西镇压, 在潮州途中被广州十三行毒枭派人毒死, 时年六十六岁. (乙巳甲申癸酉壬子, 七岁)
Lâm Tắc Từ, càn tạo 1785 Ất Tỵ niên Thất Nguyệt nhị thập lục nhật Tý thời sanh, Thất Sát tại Thân cung tọa Mệnh, hội Khôi Việt, Thiên Di cung Tử Vi Hoá Khoa, Tả Hữu Xương Khúc giao hội ư Tài Bạch, Phúc Đức nhị cung, vi dân tộc anh hùng, thanh mạt chính trị gia. Lâm tắc từ đề xướng kinh thế chi học, nhậm đông hà hà đạo tổng đốc thời tằng tu trị hoàng hà, nhậm Giang Tô tuần phủ thời hưng tu chư đa thủy lợi. 1838 Niên Mậu Tuất, tại Hồ Quảng tổng đốc nhiệm nội, cấm chỉ nha phiến, thành hiệu trác trước, vi cấm yên phái đại biểu nhân vật. Toàn thụ Mệnh vi khâm sai đại thần, phó quảng đông tra cấm nha phiến thâu nhập, thứ niên chước hoạch anh mỹ yên phiến nha phiến nhị bách tam thập thất vạn cân, tại hổ môn đương chúng tiêu hủy. Tịnh tích cực trù bị hải phòng, sáng biện nghĩa quân. Lũ thứ đả thoái anh quân vũ trang khiêu hấn. Nha Phiến Chiến Tranh bạo phát hậu, nhân lâm tắc từ đích nghiêm mật thiết phòng, sử anh quân tại quảng đông vô pháp đắc sính, nhân thụ đầu hàng phái ô hại, bị cách chức, bất cửu sung quân Tân Cương y lê, tằng tại Tân Cương hưng biện thủy lợi, khẩn tịch đồn điền. 1850 Niên canh thần,Thái Bình Thiên Quốc Khởi Nghĩa bạo phát, bị khởi dụng vi khâm sai đại thần tiền vãng Quảng Tây trấn áp, tại triều châu đồ trung bị quảng châu thập tam hành độc kiêu phái nhân độc tử, thời niên lục thập lục tuế. (Ất Tỵ Giáp Thân Quý Dậu Nhâm Tý, thất tuế)
Lâm Tắc Từ, nam mạng, sanh ngày 26 tháng 7 năm Ất Tỵ (1785) giờ Tý, cung Mệnh tại Thân có Thất Sát hội Khôi Việt, cung Thiên Di có Tử Vi Hoá Khoa, Tả Hữu Xương Khúc giao hội tại hai cung Tài Bạch, Phúc Đức. Là anh hùng dân tộc, chính trị gia cuối đời Thanh. Lâm Tắc Từ đề xướng nghiên cứu về các vấn đề công cộng của chính phủ, khi đảm nhiệm Đông Hà Hà Đạo Tổng Đốc thì bỏ côngtu sửa sông Hoàng Hà, lúc đảm nhiệm Tuần Phủ ở Giang Tô thì xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi. Năm Mậu Tuất (1838), lúc đang đảm nhiệm Tổng Đốc tại Hồ Quảng, ban hành lịnh cấm á phiện, kết quả nổi tiếng do ngăn cấm nhân vật đại biểu hút á phiện. Ra lệnh ngược lại cho Khâm Sai, đến Quảng Đông ngăn chặn nhập khẩu á phiện, năm sau chặn bắt được buôn lậu á phiện của Anh Mỹ, khoảng 2,370,000 cân á phiện bị tiêu huỷ công khai tại Hổ Môn. Ông cũng tích cực dự tính chu đáo cho việc bảo vệ bờ biến, bằng cách thiết lập các đội nghĩa quân. Liên tục đẩy lui các hành động khiêu khích vũ trang của quân Anh. Sau khi chiến tranh nha phiến bùng nổ, Lâm Tắc Từ càng canh phòng nghiêm nhặt, khiến người Anh không thể thành công ở Quảng Đông nhân vì dung nạp giặc ô hại đầu hàng, nên bị cách chức, không lâu sau bị sung quân ở Tân Cương, tại đây ông lại bắt đầu chương trình thuỷ lợi, khai khẩn đồn điền. Năm Canh Tuất (1850), Thái Bình Thiên Quốc khởi nghĩa bộc phát, nên được phục chức làm Khâm Sai Đại Thần đến Quảng Tây để dẹp loạn, trên đường đi tại Triều Châu, bị thủ lãnh Quảng Châu Thập Tam Hành phái người hạ độc chết, năm này ông được 66 tuổi.
(Bát tự: Ất Tỵ Giáp Thân Quý Dậu Nhâm Tý, 7 tuổi khởi vận).
朱德, 开国元勋, 乾造1886丙戌年冬月初六日辰时生, 七杀, 天马, 文曲在申宫坐命, 辅弼相会, 必为将帅, 号令百万雄师, 横扫天下. 贪狼, 陀罗在辰宫入庙守身宫, 乃威武中所宜有者. 1976年九十一岁, 六月初十日逝世. (丙戌己亥乙未庚辰, 二岁)
Chu Đức, Khai Quốc Nguyên Huân, càn tạo 1886 Bính Tuất niên đông nguyệt sơ lục nhật Thìn thời sanh, Thất Sát, Thiên Mã, văn khúc tại Thân cung tọa Mệnh, Phụ Bật tương hội, tất vi tướng súy, hiệu lệnh bách vạn hùng sư, hoành tảo thiên hạ. Tham lang, đà la tại thần cung nhập miếu thủ thân cung, nãi uy vũ trung sở nghi hữu giả. 1976 Niên cửu thập nhất tuế, Lục nguyệt sơ thập nhật thệ thế. (Bính Tuất Kỷ Hợi Ất Mùi Canh Thìn, nhị tuế)
Chu Đức, Khai Quốc Nguyên Huân (sáng lập Hồng Binh của Trung Quốc) nam mạng, sanh ngày mùng 6 tháng 11 năm Bính Tuất (1886) giờ Thìn, cung Mệnh có Thất Sát, Thiên Mã, Văn Khúc tại Thân, lại được Tả Phù Hữu Bật tương hội nên là tướng soái, chỉ huy quân đội hùng mạnh, quét sạch thiên hạ. cung thân tại Thìn Tham Lang, Đà La nhập miếu cũng biểu lộ cách mạnh mẽ, oai phong. Mất ngày mùng 10 tháng 6 năm 1976 (Bính Thìn), hưởng thọ 97 tuổi.
(Bát tự: Bính Tuất Kỷ Hợi Ất Mùi Canh Thìn, 2 tuổi khởi vận).
明朝孝宗弘治皇帝, 1470庚寅年七月初三日子时生(见三命通会), 七杀, 禄存在申宫坐命, 财帛, 福德有左右, 昌曲交会, 1487丁未年十八岁登基, 1505乙丑年驾崩, 在位十八年. (庚寅甲申己卯甲子)
Minh Triều Hiếu Tông Hoằng Trị Hoàng Đế, 1470 Canh Dần niên thất nguyệt sơ tam nhật tử thời sanh (kiến tam Mệnh thông hội) , Thất Sát, Lộc Tồn tại Thân cung tọa Mệnh,Tài Bạch, Phúc Đức hữu Tả Hữu, Xương Khúc giao hội, 1487 Đinh Mùi niên thập bát tuế đăng cơ, 1505 Tý Sửu niên giá băng, tại vị thập bát niên. (Canh Dần Giáp Thân Kỷ Mão Giáp Tý)
Minh Triều Hiếu Tông Hoằng Trị Hoàng Đế, sanh ngày mùng 3 tháng 7 năm Canh Dần (1470) giờ Tý (xem Tam Mệnh Thông Hội), cung Mệnh tại Thân có Thất Sát, Lộc Tồn, Tài Bạch , Phúc Đức có Tả Hữu, Xương Khúc giao hội, lên ngôi năm Đinh Mùi (1487) băng hà năm Ất Sửu (1505) tại ngôi vị được 18 năm.
(Bát tự: Canh Dần Giáp Thân Kỷ Mão Giáp Tý)
端方, 乾造1861辛酉年三月十一日申时生, 满州正白旗人. 七杀右弼在申宫坐命, 三方会昌曲, 主贵. 唯文昌化忌, 冲照命垣陀罗恶星, 不但寿命不长, 而且必遭凶死. 端方为出洋五大臣之一, 1911入川镇压保路运动, 部下起义, 被拘捕枪杀. (辛酉壬辰己亥壬申, 四岁)
Đoan Phương, càn tạo 1861 Tân Dậu niên tam nguyệt thập nhất nhật Thân thời sanh, mãn châu chính bạch kỳ nhân. Thất Sát Hữu Bật tại Thân cung tọa Mệnh, tam phương hội Xương Khúc, thiển quý. Duy Văn Xương Hóa Kị, trùng chiếu Mệnh viên Đà La ác tinh, bất đãn thọ Mệnh bất trường, nhi thả tất tao hung tử. Đoan phương vi xuất dương ngũ đại thần chi nhất, 1911 nhập xuyên trấn áp bảo lộ vận động, bộ hạ khởi nghĩa, bị câu bộ thương sát. (Tân Dậu Nhâm Thìn Kỷ Hợi Nhâm Thân, tứ tuế)
Đoan Phương, nam mạng, sanh ngày 11 tháng 3 năm Tân Dậu (1861) giờ Thân, thuộc Bạch Kỳ Mãn Châu chánh thống. Mênh cung tại Thân có Thất Sát, Hữu Bật, tam phương hội Xương Khúc chủ quý hiển. Chỉ vì Văn Xương Hoá Kỵ xung chiếu cung Mệnh có ác tinh Đà La cho nên chẳng những tuổi thọ không cao mà còn gặp phải cảnh chết thảm. Đoan Phương là một trong 5 đại thần ly khai ra nước ngoài, năm 1911 (Tân Hợi) về Tứ Xuyên để tham gia phong trào Bảo Lộ, bị bắt và bắn chết.
(Bát tự: Tân Dậu Nhâm Thìn Kỷ Hợi Nhâm Thân,
Tham khảo thêm tại: http://phongthuynguyencat.com/that-sat-trieu-dau-cach.html