Ngũ hành vượng tướng hưu tù tử:
Thuật ngữ của Âm dương ngũ hành gia. Chỉ vị trí của ngũ hành trong bốn mùa, có phân biệt vượng, tướng, hưu, tù, tử. Vượng, chỉ trạng thái ở nơi cực thịnh. Tướng, chỉ trạng thái ở nơi khá vượng, đồng thời chuyển biến theo hướng cực thịnh. Hưu, là vô sự, ngụ ý đã thoái hưu. Tù, là suy yếu, bị cầm tù. Tử, bị khắc chế mà mất hết sinh khí.
Qui luật phát triển của ngũ hành là: đương lệnh thì vượng, rồi đến hưu, tù, tử, tướng. Trạng thái của ngũ hành trong mỗi mùa theo qui luật sau: đương lệnh là ta vượng, được ta sinh là tướng, sinh ta là hưu, khắc ta là tù, ta khắc là tử.
Mười hai cung ngũ hành:
Thuật ngữ của Âm dương ngũ hành gia. Còn gọi là “mười hai cung ký sinh ngũ hành”, “tràng sinh ngũ hành”. Chỉ quá trình từ hoài thai, ra đời, trưởng thành đến tử vong của ngũ hành trong một năm mười hai tháng, phân ra mười hai giai đoạn. Tam mệnh thông hội quyển 2, Luận ngũ hành vượng tướng hưu tù tử tịnh ký sinh thập nhị cung gọi tên mười hai cung như sau: tuyệt, thai, dưỡng, tràng sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ.
Tứ quí:
Thuật ngữ của Âm dương ngũ hành gia. Chỉ bốn cung thai, tràng sinh, đế vượng, mộ trong mười hai cung ngũ hành.
Tứ kỵ:
Thuật ngữ của Âm dương ngũ hành gia. Chỉ bốn cung tử, tuyệt, bệnh, mộc dục trong mười hai cung ngũ hành.
Tứ bình:
Thuật ngữ của Âm dương ngũ hành gia. Chỉ bốn cung quan đới, lâm quan, suy, dưỡng trong mười hai cung ngũ hành.
Tuyệt:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Còn gọi là “thụ khí” hoặc “bào”. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Vạn vật ở trong đất, chưa có tượng của nó, như bụng mẹ còn trống, chưa có thai vậy” .
Thai:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Còn gọi là “thụ thai”. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Khí trời đất giao nhau, tạo vật trong cảnh mờ mịt, vật đó nảy mầm trong đất, bắt đầu có khí của nó, như người nhận khí của cha mẹ vậy”.
Dưỡng:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Còn gọi là “thành hình”. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Vạn vật thành hình trong đất, như người thành hình trong bụng mẹ vậy”.
Tràng sinh:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Vạn vật sinh ra rồi tốt tươi, như con người ra đời rồi trưởng thành”.
Mộc dục:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Còn gọi là “bại”. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Vạn vật mới sinh, hình thể non yếu, dễ bị tổn thương, như người mới sinh ra được ba ngày, phải tắm rửa cho khỏe mạnh”.
Quan đới:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết : “Vạn vật đẹp dần, như người có áo mũ”.
Lâm quan:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết : “Vạn vật thực sự đẹp, như người bắt đầu làm quan”.
Đế vượng:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết : Vạn vật chín muồi, như sự hưng vượng của con người vậy”.
Suy:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Hình của vạn vật suy yếu, như khí của người suy yếu vậy”.
Bệnh:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Vạn vật bị bệnh, như người bị bệnh vậy”.
Tử:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Tam mệnh thông hội quyển 2 viết: “Vạn vật chết đi, như người bị chết vậy”.
Mộ:
Một trong mười hai cung ngũ hành. Còn gọi là “khố” . Tam mệnh thông hội quyển 2 viết : “Vạn vật đã thành công thì đem cất vào kho, như cuối cùng đưa con người xuống mộ, xuống mộ rồi ắt thụ khí bào thai mà sinh”.