THỜI NAY – TỔNG TẬP CỦA TRẠCH CÁT HOÀNG LỊCH
Lịch triều đình nhà Thanh ban bố thường gọi là Hoàng lịch, có nghĩa là, bắt đầu từ thời nhà Thanh mới có tên gọi Hoàng lịch, trước đó không có tên gọi “Hoàng lịch”. Nội dung ghi chú của Hoàng lịch khá đầy đủ. Mỗi ngày đều có ghi thiện ác sát, việc nên làm, nên kiêng, chỉ cần xem lịch và đối chiếu sách là có thể tự hiểu, không cần người hướng dẫn. Trên thực tế, đó là cuốn sách lịch vô cùng tiện lợi được tất cả các tầng lớp trong xã hội hoan nghênh. Trong xã hội cũ, lịch được phát hành với số lượng rất lớn, thu lợi nhuận không nhỏ, dẫn tới tình trạng không chỉ chính phủ phát hành mà tư nhân cũng thi nhau in ấn. Do vậy, để tăng khách, khuyếch đại ảnh hưởng cạnh tranh nhau, họ đưa ra cái mới, lập dị, nêu bừa các loại thần sát. Đến thời Càn Long, có đến hơn 90 nhà soạn lịch tư nhân cho ra đời các loại sách lịch như thế.
Tình trạng “trăm nhà đua tiếng” đã dẫn tới sự hỗn loạn về thuật trạch cát. Nhà này nói tốt, nhà kia nói xấu làm cho thiên hạ không biết theo ai. Cho nên, các học giả thời Càn Long đã phải tốn rất nhiều công sức để thống nhất lại thể lệ, sửa cho đúng các thần sát, đính chính lại những chỗ sai do làm bừa, cuối cùng biên soan thành cuốn “Khâm định hiệp kỷ biện phương thư” gồm 36 quyển, hy vọng chỉnh đốn lại tình trạng hỗn loạn của thị trường trạch cát bấy giờ.
Sự thành thục vế lý luận đem lại sự phồn vinh cho thuật trạch cát, sự phồn vinh của thuật trạch cát lại dẫn tới sự ra đời của Hoàng lịch, sự ra đời của Trạch cát Hoàng lịch tiến tới phát triển tập tục trạch cát, mà sự phát triển này lại cho ra đời các thuật sĩ chuyên nghiệp, bùng nổ rất nhiều thần sát và nhiều phương pháp thuật trạch cát, do đó lại thổi bùng tập tục trạch cát phát triển lên một bước mới.
Nếu lấy tiêu chuẩn lịch nhà Thanh, thì từ hình thức đến nội dung, đều không thể so với lịch hiện nay ở Hồng Kông hay Đài Loan.
Ở Đài Loan, Hồng Kông hiện nay, “dòng máu” truyền thống Trạch cát Hoàng lịch và sự lưu truyền của nó không những chưa bao giờ “ngừng chảy” thậm chí còn cạnh tranh nhau kịch liệt trong nền kinh tế thị trường – cơ hội kiếm tiền càng khó thì thuật trạch cát càng được lưu hành rộng rãi trong xã hội. Bầu không khí văn hóa “tự do” khiến lớp thuật sĩ hiện đại nhòm ngó không ngừng, từ đó tập hợp , những trí tuệ ngàn xưa, lợi dụng kỹ thuật in ấn hiện đại cùng cách trình bày bìa sách với màu sắc hấp dẫn để cho ra những cuốn sách về nội dung này. Nội dung Hoàng lịch hiện nay bao quát tất cả, có thể gọi đây là tập đại thành của trạch cát Hoàng lịch Trung Hoa. Tiêu biểu hơn cả là cuốn “Trung Quốc dân lịch” hiện đang lưu hành rộng rãi ở Hồng Kông do Nhà xuất bản Nam Quốc in ấn năm 1990. Bìa sách có tiêu đề:
1990 Năm Canh Ngọ
Trung Quốc dân lịch
Đêm xem không kỵ.
Ngày xem đại cát.
Bìa lót vẽ một em bé chăn trâu mặc bộ quần áo dân tộc. Bên dưới in ngày giờ giao tiết của 24 tiết trong năm. Hai bên trái, phải là ngạn ngữ nông nghiệp chiêm nghiệm trong năm. Trang 1 in bản đồ phương vị niên thần – bên phải, bên trái và phía dưới có thuyết minh phương vị niên thần
Hàng chữ bên trái ghi:
Thái tuế
Áp tế chủ |
Người sinh năm:
Kỷ Mão – Mậu Tý – Đinh Dậu Bính Ngọ – Ất Mão – Giáp Tý |
Giờ hạ huyệt tránh thì tốt |
Hàng chữ bên phải ghi:
Là năm Tam sát ở Bắc – Ngũ hoàng ở quẻ Ly, gồm Hợi, Nhâm, Tý.
Kỵ dùng các sơn Quý Sửu – Bính Ngọ – Đinh – Các sơn khác đều lợi.
Hàng chữ phía dưới ghi:
Thái tuế năm nay họ Vương tên Thanh, Thiên can thuộc Kim, Địa chi thuộc Hỏa, Nạp Âm thuộc Thổ. Tuế đức ở Canh, Tuế đức hợp ở Ất, Vị thổ trì trực niên, Dực hỏa xà quản cục. Ngày Mão sao Nữ, Ngày Tuất sao Vị là ám kim phục đoạn. 10 ngày đắc Tân, nhất long trị thủy, 10 trâu cày ruộng, 2 cô chăn tằm, tằm ăn bảy lá. Vương nguyên soái hành lôi.
Lịch tháng bao gồm các nội dung: tháng thiếu đủ, nguyệt kiến, tiết khí, thai thần, phương vị sát,…
Lịch ngày bao gồm các nội dung: ngày tháng, thứ, nhật lệnh, thần sát, lịch âm, can chi, nạp âm ngũ hành, quái vận, cửu tinh, giờ cát hung,…
Ngoài nội dung lịch ngày trong 12 tháng, còn lại 120 trang biên tập rất nhiều nội dung: thuật tính toán vận mệnh, trạch cát, đoán mộng, thuật phong thủy, sinh đẻ, hôn nhân,… Trong số những nội dung trên thì thuật tính toán vận mệnh là nhiều nhất: nào là Bát tự toán mệnh thuật, Tử vi đẩu số suy mệnh thuật; nào là Tinh tướng thuật, xem tướng mặt, tướng tay, vân ngón tay, đoán tính nết lành dữ qua Tam nguyên cửu tinh, vận mệnh con người qua Lục thập Giáp Tý,… Trong đó, những nội dung liên quan đến thuật trạch cát cũng không ít phương lành, phương dữ của 60 ngày Giáp Tý, ghi rõ từng ngày có Hỷ Thần, Quỷ Thần, Tài thần, Hạc thần, Cát môn, Sinh môn, Khai môn, Ngọc thần, Ngũ quỷ, Tử môn và phương vị Không vong; rồi phân tích ý nghĩa Cát thần của giờ lành, Hung thần của giờ dữ; những điều cần chú ý khi di chuyển nhà đến nơi ở mới; ngày lành dữ dụng thần cầu phúc của 60 Giáp Tý; bí quyết chọn ngày của pháp sư; phương lành dữ khi đặt bàn làm việc ở cơ quan và nhà ở; những ngày tốt cắt tóc trẻ,… Nội dung “Trung Quốc dân lịch” chẳng những bao quát truyền thông trạch cát Hoàng lịch mà còn hấp thụ không ít những thành phần mới (như Quái vận từng ngày), từ đó mà dung lượng của nó phát triển rộng lớn hơn trước.
“Trung Quốc dân lịch” hiện lưu hành ở Hồng Kông, Đài Loan mặc dù nội dung có phong phú hơn, song chất lượng so với Hoàng lịch cũng không cao, thậm chí còn kém hơn, đã từng bị các “thuật sĩ chính thông” và các học giả nghiên cứu đòi nhà Thanh phê phán là “tiếm ngụy”, là “ngụy tạo”, có những thần sát hoàn toàn vô nghĩa Hồng sa sát, Đạo trâm, Huyết trâm, Huyết nhận, Dương công kỵ, Thập ác đại bại,… được thu nhập vào trong đó nên sách bị pha tạp quá nhiều, kém chất lượng.
(Theo sách Bí ẩn về chọn ngày của Nhà xuất bản Hà Nội)