Xem vận hạn năm nay xảy ra sự việc gì, cát hung ra sao cũng là việc tối cần thiết để mà tìm lấy điều lành, tránh điều dữ. Đoán hạn vốn dĩ là tinh hoa của Tử vi và có lẽ cùng là phần khó nhất đối với người nghiên cứu Tử vi. Bởi vì, cách cục thì quá nhiều, tính lý của sao cũng biến hóa vô cùng mà họa phúc của đời người thì không ai có thể lường hết được. Muốn đoán hạn được chính xác, ngoài việc nắm chắc được tính lý của các sao, sự sinh khắc của ngũ hành, mối quan hệ giữa Mệnh, Thân và Vận hạn… còn phải có đầu óc suy luận sắc bén thì mới luận chuẩn xác được. Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu về tử vi xưa nay viết riêng về vấn đề xem hạn không nhiều. Đặc biệt là viết về mối quan hệ giữa Mệnh bàn và Vận hạn trong Tử vi. Gần đây chúng tôi có tình cờ tìm được một tài liệu (viết bằng tiếng Trung) viết riêng về phương pháp xem hạn. Chúng tôi đã biên dịch tài liệu này ra tiếng Việt để những người yêu thích môn Tử vi có thêm một bộ tài liệu tham khảo, nghiên cứu. Tài liệu gồm 11 phần, bao gồm:
Bài 1: Mối quan hệ giữa mệnh cục, đại hạn và tiểu hạn, lưu niên.
Bài 2: Phương pháp tìm thiên can của đại hạn
Bài 3: Diễn giải phương pháp cơ bản để phân tích đại hạn
Bài 4: Diễn giải phương pháp cơ bản để phân tích tiểu hạn và lưu niên
Bài 5: Phương pháp xem xét hạn tháng, hạn ngày, hạn giờ
Bài 6: Kinh nghiệm luận đoán hạn năm
Bài 7: Suy đoán vận khí của các sao trong hạn năm
Bài 8: Phán đoán sự cát hung của Thái tuế và tiểu hạn khi vào 12 cung
Bài 9: Phép xem xét các sao lưu
Bài 10: Xem hạn trẻ nhỏ
Bài 1: Mối quan hệ giữa mệnh cục, đại hạn và tiểu hạn, lưu niên
Mệnh và Vận luôn hòa hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể, nhưng chúng đều có những đặc điểm riêng biệt. “Mệnh” là “tiên thiên” cũng là nhân tố bên trong, là linh hồn, là thân thể, là thành phần căn bản của số phận của con người. Cách cục cao thấp của mệnh quyết định đến khả năng có thể đạt đến tối cao trong hạn ngạch của sự thừa hưởng phú quý đối với một đời người. Còn “Vận” lại là nhân tố bên ngoài, là sức ảnh hưởng của hoàn cảnh “hậu thiên”, là môi trường thích ứng hay không thích ứng với năng lực của bản thân một người, là lịch trình các hoạt động của một cá nhân tại mỗi thời điểm, cũng là kết quả của nỗ lực “hậu thiên”, sự phát triển biến hóa của “Vận” cũng có thể ảnh hưởng đến kết cục của “Mệnh”. Nguyên nhân bên trong là tác dụng khởi phát chủ yếu, nguyên nhân bên trong lại thông qua nhân tố bên ngoài mà có tác dụng. “Mệnh” là nhân tố chủ yếu, “Mệnh” thông qua “Vận” mà khởi phát tác dụng của nó, sở dĩ “Mệnh” cùng “Vận” đều rất quan trọng, là vì chúng tổ hợp thành một định tuyến của số phận con người. Ví dụ như, mệnh cục nhiều hung tinh hoặc chính tinh ở nơi hãm địa, là người xuất thân nghèo khó, gặp vận được cát hóa (Khoa, Quyền, Lộc) hoặc cát tinh hội hợp, phần nhiều là có thành tựu đột phá, khi vận tốt qua đi thì lại trở nên bôn ba mà không được như ý. Ngược lại, mệnh cục nhiều cát tinh vượng địa, là người xuất thân phú quý, gặp phải vận hạn sát tinh, Hóa Kị trùng chiếu, nhất định đột nhiên nghèo khó, không được như ý, khi ác vận qua đi tất có thể khôi phục nguyên khí. Lại giả sử như, mệnh cục chủ về quan tước, đến đại vận được phù trợ tất được làm quan, nếu suốt đời không gặp được vận tốt, cũng không được làm quan chức, tối đa cũng chỉ không bị nghèo hèn mà thôi; mệnh cung không có quan cách, có được đại vận tốt phù trợ cũng khó được làm quan, tối đa thì được sự nghiệp phát triển thuận lợi.
“Tại thiên thùy tượng, tại địa thành hình, tại nhân thành sự” (Trên trời là “tượng”, dưới đất thành hình, ở người thì là sự việc). Thiên bàn là “thiên”, đại hạn bàn là “địa”, lưu niên bàn là “nhân”. Mệnh đích thực là Thiên định, cách cục của nguyên mệnh cao hay thấp, sẽ xác định suốt đời phú quý hay nghèo hèn, thọ hay yểu, tức là định số, thuộc trạng thái “tĩnh”. Hạn từng năm là các giai đoạn thăng trầm, thay đổi, biến hóa của cuộc đời, thuộc về trạng thái “động”. Cung và Sao ở trong nguyên mệnh bàn phản ánh bản chất của sự việc trong đời người, vận hạn phản ảnh những hoàn cảnh mà đời người gặp phải. Cung và Sao trong vận hạn không khởi phát tác dụng của bản chất, bản tính (tính tình) của nó, trong trong một thời gian ngắn không có khả năng đạt được điều đó, nhưng có thể biểu hiện tác dụng vốn có của tượng ý (hình tượng và ý nghĩa của sao), hóa khí và tượng ý của sao vẫn có tác dụng; ví dụ như, sao Tử vi bản chất là Hoàng đế, cần có bách quan triều củng (ý nói cần có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt hội hợp), ở trong vận hạn tất nhiên bản chất của nó không phải là Hoàng đế, cho nên có thể không cần có bách quan triều củng, nhưng vẫn có tài năng lãnh đạo, dẫn đầu, điều phối rất đặc sắc, nếu gặp thêm bách quan triều chủng thì càng có lợi. Lại như Thiên cơ bản tính đích thực chủ về thông minh, cần phải có khoa tinh, văn tinh củng chiếu, tại trong vận hạn tất không phải chủ về thông minh, nên không nhất định cần phải có khoa tinh, văn tinh củng chiếu, trong một thời gian ngắn không thể biến thành người thông minh, nhưng tính cơ biến, biến động, cơ mưu cùng với khả năng dựa vào quyền thế vẫn đang tồn tại, gặp khoa tính, văn tinh, cát tinh đối với vận trình vẫn có lợi. Tính chất cung, sao vận hành hạn dựa trên sự phát triển biến hóa và phản ứng của tính chất cung Thiên bàn, xem xem điều này có ảnh hưởng gì tới bản chất? Điều này có ảnh hưởng tốt hay ảnh hưởng xấu tới bản chất, nếu ảnh hưởng tốt thì sẽ có tác dụng tăng cường cho bản chất, con người, sự việc sẽ phát triển theo hướng tốt; nếu ảnh hưởng không tốt sẽ làm suy yếu bản chất, con người, sự việc phát triển theo chiều hướng xấu đi. Bản chất cung mệnh bàn khác nhau , hạn hành tốt xấu cũng khác nhau, khắc ứng ( ứng hạn hay không ứng hạn) của hạn năm cung khác nhau. Vì vậy, phân tích hạn năm không thể xa rời Mệnh cục, vẫn phải lấy Mệnh cục làm then chốt để mà định số. Ví dụ, Mệnh cục biểu thị con người này không làm quan, đại tiểu hạn tốt lắm cũng chỉ thể hiện là rất thuận lợi, thì không thể thăng quan được, cho dù có thăng quan cũng không làm được chức vụ lớn. Ví như tôm cá vào được biển khơi tự do bơi lội, nhưng không thể biến thành con rồng được. Vậy khi nào có thể thăng quan phát tài được? Khi nào phải gặp tai ương? Điều này phải lấy đại hạn và lưu niên tiểu hạn để xác quyết. Đại hạn là điểm chuyển tiếp, là mốc quan trọng, có tác dụng then chốt. Phú quý cát hung đã được định hình cơ bản, tiếp theo cần xem ứng với năm nào trong đại hạn mười năm này. Ví như luận về hung tai, thì trước tiên xem cung tiêu điểm là nguồn trọng bệnh của mệnh cục, là nơi ẩn họa, tồn tại các tai ách, là gốc của họa. Sau đó cần xem diễn tiến phát triển của đại hạn, nếu hung tăng thì tăng thêm phần luận đoán tai ách có thể phát sinh, tai ách đã có manh nha hình thành. Sau đó định cục cơ bản, xem xảy ra vào năm nào; Tiếp theo xem trong đại hạn 10 năm này cung lưu niên tiểu hạn nào và cung lưu niên nào hung để xác quyết năm nào xảy ra tai ách. Tiếp theo xem xét tới hạn tháng, hạn ngày, hạn giờ.
(còn tiếp)